Nhân kỷ niệm 96 năm
Cách mạng tháng Mười Nga (7/11/1917 - 7/11/2013), bài viết này nhằm cung cấp
một cái nhìn cận cảnh về sự tan rã của Liên Xô.
Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô và Đông Âu cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX là một sự kiện
đặc biệt quan trọng của thế giới, là một tổn thất hết sức to lớn của những
người cộng sản trong quá trình hiện thực hóa học thuyết Mác-Lênin. Sự tan rã
của Liên bang Xô viết vào cuối 1991 đã làm thay đổi căn bản cục diện chính trị
thế giới.
Trong giai đoạn 1918 - 1920, nước Nga Xô viết
nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc và bị bọn Bạch vệ (được sự hậu thuẫn
của nước ngoài) tấn công từ bốn phía. Trong giai đoạn đặc biệt khó khăn này,
nước Nga Xô viết non trẻ lâm vào thế "ngàn cân treo sợi tóc". Dưới sự
lãnh đạo của Lênin và Đảng Bonsevich, nước Nga Xô viết đã vượt qua thách thức
hiểm nghèo để tiếp tục phát triển.
Sau hơn bảy chục năm
tồn tại, phát triển không ngừng, vào cuối những năm 80 của thế kỷ trước, Liên
Xô đã trở thành một cường quốc hàng đầu thế giới. Với sức mạnh to lớn về quân
sự, khoa học công nghệ và kinh tế, Liên xô đủ sức đương đầu với hệ thống tư bản
thế giới và có khả năng ngăn chặn mọi âm mưu, hoạt động hiếu chiến của chủ
nghĩa đế quốc để bảo vệ hòa bình thế giới.
Liên Xô tan rã khi đã đạt đến đỉnh cao.
Tại sao?
Đã có hàng trăm, thậm chí hàng nghìn bài viết,
công trình chuyên khảo và sách lý giải vấn đề này, trong đó các cuốn sách của
những người trong cuộc đưa ra lời giải có sức thuyết phục nhất. Nhân kỷ niệm 96
năm Cách mạng tháng Mười Nga (7/11/1917 - 7/11/2013), bài viết này nhằm cung
cấp một cái nhìn cận cảnh về sự tan rã của Liên Xô.
1. Hệ thống XHCN hiện
thực với Liên Xô làm trụ cột đã có đóng góp hết sức to lớn vào sự phát triển của
thế giới.
Trong nửa sau của thế kỷ XX, trên thế giới có
hơn một chục Đảng Cộng sản cầm quyền, hình thành một hệ thống XHCN hùng mạnh đủ
sức kiềm chế mọi hành động đơn phương, hiếu chiến chống phá cách mạng của chủ
nghĩa đế quốc đứng đầu là Mỹ.
Chính nhờ sự tồn tại của hệ thống XHCN hùng
mạnh, hàng trăm dân tộc bị nô dịch, áp bức đã vùng lên làm cách mạng giải phóng
dân tộc, làm suy sụp chủ nghĩa thực dân cũ, làm thất bại chủ nghĩa thực dân
mới. Xét đến cùng, sự hình thành và phát triển của phong trào không liên kết là
thành quả của cuộc đấu tranh vô sản - tư sản trên phạm vi toàn cầu, là thành
tựu to lớn của các Đảng Cộng sản cầm quyền trong thế kỷ XX. Nói cách khác,
chính những người cộng sản, trước hết là các Đảng Cộng sản cầm quyền ở các nước
thuộc hệ thống XHCN, đã ghi tạc một mốc son chói lọi vào tiến trình phát triển
văn minh nhân loại.
Các Đảng Cộng sản cầm quyền đã xây dựng được
một hệ thống xã hội hùng mạnh (hệ thống XHCN), trên nhiều lĩnh vực cơ bản của
đời sống xã hội tốt đẹp hơn, ưu việt hơn chủ nghĩa tư bản (CNTB). Cho đến nay,
sau 22 năm Liên Xô tan rã, vẫn có 59% người Nga được hỏi ý kiến cho rằng ở chủ
nghĩa xã hội nhiều điều tích cực hơn là tiêu cực, và đa số người Nga vẫn nuối
tiếc thời Xô viết vàng son.
Thật trớ trêu, chính các Đảng Cộng sản cầm
quyền, trước hết và chủ yếu là Đảng Cộng sản Liên Xô, lại để mất quyền lãnh
đạo, làm cho hệ thống XHCN hùng mạnh được họ dẫn dắt hàng trăm triệu người xây
dựng nên sụp đổ, tan rã. Cần lưu ý rằng Đảng Cộng sản Liên Xô mất quyền lãnh
đạo, Liên Xô tan rã mà không thông qua một cuộc chiến tranh với chủ nghĩa đế
quốc.
Thực chất, Đảng Cộng sản Liên Xô, trực tiếp và
chủ yếu là Bộ Chính trị, BCHTƯ đã tha hóa, đã tự đánh mất mình và làm cho Liên
Xô tan rã. Chính những người lãnh đạo cao nhất, các ủy viên Bộ Chính trị Đảng
CSLX đã thừa nhận điều đó. Tất nhiên, hoạt động chống phá của các thế lực chống
cộng quốc tế thông qua chiến lược "diễn biến hòa bình" cũng là một
nguyên nhân làm cho Liên Xô tan rã, nhưng chắc chắn không phải là nguyên nhân
chính, không phải là nguyên nhân chủ yếu.
![]() |
Cuộc duyệt binh của các chiến sĩ Hồng quân Liên Xô ở Quảng trường Đỏ |
2. Đảng Cộng sản Liên
Xô đã tha hóa, biến chất như thế nào?
Sơ bộ có thể nêu ra một số biểu hiện lớn sau
đây:
- Một là, Đảng Cộng sản Liên Xô đã vi phạm nguyên
tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Đi liền với nó là các bệnh tật: độc
đoán, chuyên quyền, không chấp nhận những ý kiến khác với mình; coi thường tập
thể, coi thường cấp dưới, tự cho mọi ý kiến của mình là chân lý buộc mọi người
phải tuân theo, coi những ai có ý kiến ngược lại là chống đối, thậm chí là thù
địch, khi cần thiết bảo vệ "cái uy" của mình, họ sẵn sàng đối xử với
đồng chí, đồng đội như đối với kẻ thù. Kết quả là trong sinh hoạt, đảng mất hết
sinh khí, mất hết tính chiến đấu. Sinh hoạt đảng trở nên tẻ nhạt, khô cứng, độc
thoại một chiều. Trong điều kiện đó nhiều đảng viên trung kiên, trong sáng
không được trọng dụng, cố nín nhịn để tồn tại, những kẻ cơ hội, nịnh bợ có điều
kiện được thăng tiến.
- Hai là, Bộ Chính trị, BCHTƯ Đảng Cộng sản
Liên Xô đã quan liêu xa rời thực tiễn, để mất quan hệ máu thịt giữa Đảng CSLX
với nhân dân Liên Xô. Tệ quan liêu làm cho những người lãnh đạo các cấp của
Đảng CSLX xa rời thực tế, không có hiểu biết đúng đắn hiện trạng xã hội mà mình
đang lãnh đạo, quản lý. Họ thờ ơ trước những nguyện vọng chính đáng của quần
chúng, thậm chí không có rung động, phản ứng trước những nỗi thống khổ, oan ức
của một bộ phận quần chúng nhân dân, trong đó có cả một bộ phận đảng viên, cán
bộ cấp dưới.
- Ba là, những suy thoái về đạo đức, lối sống
của một số lãnh đạo cấp cao giữ vai trò chủ chốt với những biểu hiện nổi bật:
Sống ích kỷ, đặt lợi ích của bản thân, gia đình và người thân lên trên lợi ích
của Đảng, của nhân dân; cục bộ địa phương, kéo bè kéo cánh đưa những người thân
tín với mình, kể cả những người yếu về năng lực, kém về đạo đức, lối sống vào
những vị trí lãnh đạo để làm vây cánh, che chắn bảo vệ mình; tham ô, sống xa
hoa, nói một đằng làm một nẻo, cá biệt còn tha hoá, suy đồi về đạo đức, lối
sống.
Trên đây là những biểu hiện nổi bật chủ yếu sự
thoái hoá của một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Liên Xô, nhất là
các cán bộ chủ chốt ở cấp cao.
Chỉ khi nào sự thoái hóa, biến chất diễn ra
tại trung tâm quyền lực (chóp bu) của Đảng thì mới trở thành nguy cơ đối với
Đảng, đó là đêm trước của sự tan rã, sụp đổ. Đảng Cộng sản Liên Xô và các
"phiên bản" Đông Âu của nó thuộc trường hợp này.
Thông thường các biểu hiện trên không tồn tại
biệt lập, mà luôn song hành, có quan hệ với nhau, tác động với nhau, có lúc cái
này làm tiền đề, điều kiện cho cái kia tồn tại và phát triển. Những biểu hiện
thoái hoá nói trên, không bỗng nhiên xuất hiện, mà có một quá trình từ chớm nở
như một ung nhọt nhỏ rồi phát triển qua nhiều giai đoạn. Những bệnh tật này
lặng lẽ tích dồn liên tục trong nhiều tháng, nhiều năm làm Đảng mất sức chiến
đấu, thiếu nhạy bén, không đưa ra được đường lối, quyết sách đúng đắn, khả thi.
Trong Đảng CSLX đã thực sự có phân hoá: Một bộ phận cán bộ, đảng viên giàu lên
nhanh chóng do đặc quyền, đặc lợi, đại bộ phận sống khó khăn; nhiều đảng viên
nói một đằng làm một nẻo, trong cuộc họp nói khác ngoài cuộc họp, suy nghĩ một
đằng phát biểu một nẻo. Tính chiến đấu trong sinh hoạt đảng dần dần nguội lạnh,
nhiều đảng viên trở nên thờ ơ trước những vấn đề chính trị có quan hệ đến vận
mệnh của Đảng CSLX.
Theo Ph. M. Rudinxki, có thể chia 20 triệu
đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô làm 4 loại: 1, Những đảng viên chân chính
thường chiếm tỷ lệ nhỏ, 2. Những người thực hiện, chấp hành chỉ thị, nghị quyết
của Đảng như cái máy (chiếm khoảng hơn 96 %); 3. Những kẻ cơ hội , xu thời,
nịnh bợ (phần lớn trong bộ máy công quyền) ; 4. Những người im lặng (phần lớn
họ là những người có hiểu biết nhưng sợ bị trù dập nên họ giữ im lặng, không
dám phát biểu).
N. I. Rưscôp, nguyên ủy viên Bộ Chính
trị ĐCS Liên Xô, Thủ tướng Liên Xô (1985 - 1990) cho rằng: Tồn tại hai Đảng
trong Đảng Cộng sản Liên Xô: Một đảng của hàng chục triệu đảng viên bình thường
và một đảng của những quan chức chóp bu trong hệ thống đảng, nhà nước Liên Xô .
Những đảng viên nắm quyền lực ở cấp cao ngày càng xa rời, cách biệt với hàng
chục triệu đảng viên bình thường. Số đảng viên này, về thực chất, không đại
diện và bảo vệ lợi ích của giai cấp, của dân tộc, mà chỉ tìm mọi cách bám giữ
quyền lực vì lợi ích cá nhân của họ.
Do những bệnh tật kể trên, đại bộ phận quần
chúng nhân dân giảm lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng CSLX, thờ ơ đối với
những vấn đề chính trị trọng đại của đất nước, thậm chí có một số trông chờ,
mong muốn có sự thay đổi. Chính đó là trạng thái trong Đảng Cộng sản Liên Xô và
trong xã hội Liên Xô vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, đêm
trước của sự sụp đổ, tan rã (1989 - 1991).
3. Thử bàn về các
nguyên nhân.
Về hoạt động chống phá của Mỹ và các thế lực
chống cộng quốc tế thì rõ ràng, có đầy đủ thông tin, tư liệu để khẳng định.
Tuyệt đối không được mơ hồ, mất cảnh giác.
Mặt trái của cơ chế thị trường cũng là một
nguyên nhân. Nhưng nếu quá nhấn mạnh, cường điệu mặt trái của cơ chế thị trường
thì khó lòng giải thích được những thoái hoá của Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng
Cộng sản Trung Quốc trong thời kỳ Mao Trạch Đông, Xtalin và Brê-giơ-nhép nép
lãnh đạo, vì thời Mao, thời Xtalin, thời Brê-giơ-nhép chưa có kinh tế thị
trường.
Nghiên cứu kỹ quá trình thoái hoá của Đảng
Cộng sản Liên Xô, kể cả những đảng cầm quyền rồi mất quyền và những đảng hiện
nay còn cầm quyền, chúng tôi xin nêu ra hai vấn đề để trao đổi, thảo luận.
- Một là, về mặt tổ chức, trong suốt quá trình
tồn tại, phát triển của mình, Đảng Cộng sản Liên Xô chưa xây dựng được cơ chế
hữu hiệu để đảm bảo dân chủ thực sự trong sinh hoạt Đảng. Đảng CSLX đã vi phạm
nguyên tắc tập trung dân chủ trong suốt quá trình hoạt động. Theo chúng tôi,
đây là điểm khởi thuỷ, nguồn gốc của mọi biểu hiện khác về sự thoái hoá của
Đảng CSLX (quan liêu, tha hoá về tư tưởng chính trị, thoái hoá về đạo đức, lối
sống, chia rẽ mất đoàn kết...). Ở đâu và khi nào trong sinh hoạt đảng thể hiện
sục sôi dân chủ, thì đảng có sức sống mãnh liệt. Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích Nga
dưới thời lãnh đạo của Lênin là một ví dụ điển hình.
Xét đến cùng, do thiếu dân chủ trong sinh hoạt
Đảng nên cơ quan lãnh đạo của Đảng CSLX thiếu thông tin nhiều mặt về một vấn
đề, đặc biệt là những vấn đề hệ trọng quan hệ đến sinh tồn của Đảng. Thiếu dân
chủ cho nên trong sinh hoạt đảng thường là độc thoại một chiều từ những người
lãnh đạo cao nhất, thiếu hẳn thông tin phản hồi từ dưới lên. Thiếu dân chủ, nên
những đảng viên ưu tú, nhạy bén, sắc sảo, thông minh không có chỗ để thể hiện ý
tưởng của mình. Trong một tổ chức như vậy, bộ tham mưu cao nhất không có đủ
thông tin nhiều chiều, toàn diện, do đó những quyết định về đường lối, sách
lược thường không phù hợp với thực tiễn, thậm chí trái ngược với quy luật,
ngược với hiện thực khách quan. Phải chăng, đó là một trong những nguyên nhân
căn bản dẫn đến tình trạng nghị quyết, chỉ thị rất nhiều nhưng việc đưa vào
cuộc sống không được bao nhiêu. Theo ngôn ngữ y học, thuốc rất nhiều nhưng
không có loại đặc trị, nên bệnh tình sẽ ngày càng trầm trọng.
Dưới góc độ lý thuyết hệ thống, có thể xem một
tổ chức đảng như một hệ thống. Để đảm bảo cho hệ thống đó tồn tại bền vững,
nhất thiết phải có trao đổi thông tin. Nếu thiếu trao đổi thông tin (theo 2
chiều thuận - nghịch, từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong) thì sớm muộn hệ
thống đó sẽ bị đổ vỡ để chuyển sang một trạng thái khác. Thiếu dân chủ trong
sinh hoạt đảng, tức là thiếu trao đổi thông tin (trên xuống, dưới lên, trong
đảng ra ngoài xã hội và ngược lại). Nếu trạng thái này kéo dài thì sẽ sinh ra
thoái hóa của hệ thống đảng dưới nhiều biểu hiện như đã trình bày ở trên. Nếu
không khắc phục được, để kéo dài, thì sớm muộn sự thoái hóa của một số đảng
viên ở vị trí chủ chốt sẽ dẫn đến sự thoái hóa của đảng cầm quyền.
Hãy trở lại với Đảng Cộng sản Liên Xô để chúng
ta hiểu rõ vấn đề dân chủ trong đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh
hoạt Đảng được ghi rõ trong Điều lệ, Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Bôn - sê -
vích Nga từ năm 1903. Điều lệ Đảng Cộng sản Liên Xô, qua nhiều lần thay đổi,
vẫn là một văn bản quy định rất chặt chẽ, rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của
đảng viên. Tại sao không ngăn chặn được những biến thái lệch lạc của Xta-lin,
Brê-giơ-nhép, không ngăn chặn được hành vi lạm quyền, lộng quyền và phản bội
của Góoc-ba-chốp? Cớ sao hàng chục triệu đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô không
có phản ứng gì khi Góoc-ba-chốp tuyên bố giải tán Đảng? Không thể nói cách
khác, thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng và không có cơ chế giám sát quyền lực
hữu hiệu, đặc biệt là thiếu hẳn cơ chế giám sát hoạt động của Tổng bí thư, của
Bộ Chính trị là nguồn gốc sinh ra tệ lạm quyền, lộng quyền của những người lãnh
đạo Đảng CSLX, làm cho đảng có một xác thịt to lớn (hàng chục triệu đảng viên),
nhưng không có hồn, không có sức sống.
Thực tế xác nhận: Đảng CSLX trước đây không có
lực lượng nào và không có cơ chế nào thực hiện giám sát và phản biện hoạt động
của Tổng Bí thư, của Bộ Chính trị. Một nhóm nhỏ này, có khi chỉ dăm ba người
nắm quyền lực tối cao, tự tung tự tác, ai có ý kiến khác sẽ bị họ chụp cho cái
mũ là "chống đối", "là phản động", "là chống
Đảng", thậm chí là "phản bội Tổ quốc"...
Cũng do thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng mà
các thành viên trong tổ chức có quan hệ với nhau rất lỏng lẻo, đảng mất hết sức
sống, tính chiến đấu chỉ còn lại trong nghị quyết.
Do thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng, mà một
thời gian dài trước khi sụp đổ, tan rã, trong Đảng Cộng sản Liên Xô cũng như
trong các Đảng Cộng sản ở các nước XHCN ở Đông Âu đã lặng lẽ diễn ra một quá
trình phân hóa trong đảng, cả trong sinh hoạt Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị. Các đảng viên nghĩ một đằng phát biểu một đằng, không dám thể hiện
chính kiến của mình ngay cả đối với vấn đề quan hệ đến sinh tồn của Đảng. Trong
cuộc họp người ta nói một đằng, mà phần lớn không thật lòng, ngoài cuộc họp
người ta nói riêng với nhau lại khác, cấp trên áp đặt, cấp dưới điều chỉnh hành
vi cho phù hợp với cấp trên, mọi thông tin chính thức từ trên xuống và
đặc biệt là từ dưới lên đều thiếu chân thật. Chưa đến một tháng trước khi tan
rã, mất quyền lãnh đạo, những người lãnh đạo của một Đảng Cộng sản cầm quyền
vẫn khẳng định sức chiến đấu của đảng mình, vẫn tuyên bố tuyệt đại bộ phận nhân
dân còn ơn đảng, theo đảng, tin đảng và tuyệt đại đa số đảng viên là tin cậy,
trung thành...!
Cũng do thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng mà
Đảng CSLX đã mắc sai lầm trong việc đánh giá cán bộ, đào tạo cán bộ, tuyển chọn
và bố trí, sử dụng cán bộ vào vị trí chủ chốt trong Đảng, trong Nhà nước. Thiếu
dân chủ là bà đỡ của thói nịnh bợ, luồn lọt, là điều kiện tốt cho chủ nghĩa
thực dụng, cơ hội vị kỷ phát sinh tồn tại trong đảng, nhất là ở các cơ quan
lãnh đạo cấp cao. Ai cũng biết cán bộ quyết định tất cả, và thực tiễn cũng xác
nhận điều đó. Nhưng Đảng CSLX phạm sai lầm trong công tác sử dụng, bố trí cán
bộ.
- Hai là, sự thoái hóa của Đảng CSLX là do các
đảng viên, trước hết và chủ yếu là các đảng viên trước hết giữ vị trí lãnh đạo
chủ chốt ở cấp cao, chưa đủ độ chín muồi về mặt chính trị, chưa thực sự giác
ngộ về giai cấp, về lý tưởng cộng sản. Khi kết nạp mọi đảng viên đều tuyên thệ
về sự giác ngộ lý tưởng cộng sản của mình, hứa hẹn một lòng một dạ phấn đấu vì
lợi ích của giai cấp, của những người lao động, nguyện trung thành
với lý tưởng cộng sản... Nhưng khi đã vào đảng rồi thì họ thiếu rèn luyện và
trong hoạt động thực tiễn, họ dần dần xa rời những lời tuyên thệ, hứa hẹn của
mình. Đó là quá trình tha hóa của đảng viên, và kéo theo sự tha hóa của đảng.
Tất nhiên, không phải mọi đảng viên đều diễn ra quá trình tha hóa đó.
Tất nhiên, còn nhiều vấn đề thuộc về nguyên
nhân và điều kiện làm cho Đảng CSLX thoái hóa, Liên Xô tan rã. Ở đây chúng tôi
không có điều kiện để trình bày tất cả, chỉ nêu ra những nhân tố quan trọng
nhất, cơ bản nhất. Có thể xem nó là nguồn gốc của mọi thoái hóa của Đảng cầm
quyền nói chung, của Đảng CSLX nói riêng.
*
* *
Năm 2013, nhân dân Nga nói riêng, nhân dân 15
nước Cộng hòa thuộc Liên Xô (cũ) cũng như nhân dân Việt Nam và nhân loại tiến
bộ nói chung, kỷ niệm 96 năm Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại (7/11/1917 -
7/11/2013). Chủ nghĩa xã hội đã tồn tại 74 năm tại nước Nga (1917 - 1991) và
Liên Xô tan rã đã 22 năm (1991 - 2013). Người Nga nói riêng, nhân loại tiến bộ
nói chung, còn phải tiếp tục nghiên cứu lý giải một cách cặn kẽ và có sức
thuyết phục về những vấn đề liên quan đến sự tan rã của Liên Xô.
Sau chừng ấy thời gian, cho phép chúng ta khái
quát ba vấn đề lớn sau:
- Một là, từ Cách mạng tháng Mười Nga đến khi
Liên Xô tan rã (1917 - 1991) có thể phân kỳ như sau: 1. Thế hệ cách mạng đầu
tiên do Lênin lãnh đạo đã đưa nước Nga Xô viết non trẻ vượt qua thử thách
"ngàn cân treo sợi tóc" 1917 - 1920 để tồn tại và phát triển; 2. Thế
hệ lãnh đạo thứ hai do Stalin lãnh đạo đã tiêu diệt Chủ nghĩa phát xít Đức -
Nhật - Ý và đưa Liên Xô trở thành cường quốc thế giới; 3; Thế hệ lãnh đạo thứ
ba ở Liên Xô từ Khơrusốp đến Bregiơnép là những người đã tham gia Chiến tranh
Vệ quốc vĩ đại (1941 - 1945) và họ đã đưa Liên Xô trở thành cường quốc hàng đầu
thế giới; 4. Thế hệ lãnh đạo thứ tư với hạt nhân là Góocbachop, là những người
sinh ra trong thời kỳ chiến tranh vệ quốc vĩ đại và chưa nếm trải thử thách của
chiến tranh.
Chính thế hệ lãnh đạo thứ tư đã làm cho Đảng
CSLX mất quyền lãnh đạo, làm cho Liên Xô tan rã.
- Hai là, thế hệ lãnh đạo thứ tư ở Liên Xô với
Góocbachop là hạt nhân đã nắm trong tay mọi quyền lực và mọi nguồn lực của đất
nước, nhưng họ không thuận theo lòng dân, không được dân ủng hộ nên đánh mất
toàn bộ cơ đồ sự nghiệp và bị lịch sử vứt vào sọt rác.
Hóa ra, việc thâu tóm được mọi quyền lực và
mọi nguồn lực quốc gia không khó bằng nắm được lòng dân. Những ai không nắm
được lòng dân thì họ đã thất bại ngay khi đang nắm quyền lực.
- Ba là, các đảng cộng sản đang cầm quyền và
chưa cầm quyền cần rút ra bài học từ thất bại của Đảng CSLX, từ sự tan rã của
Liên Xô để vượt qua chính mình vì hạnh phúc của nhân dân và sự hưng thịnh của
đất nước.
Sai lầm và khuyết điểm rất khó tránh, nhưng
không thực sự nguy hiểm. Điều nguy hiểm nhất là không dám thừa nhận sai lầm,
khuyết điểm, đặc biệt là không có quyết tâm chính trị để tránh sai lầm, khắc
phục khuyết điểm.
Theo Vietnam.net
0 Comments