A.
MỞ ĐẦU
Bước
vào thời kì mới, nhất là trong bối cảnh thế giới như hiện nay, thì Đảng ta cần
có những thay đổi phù hợp với tình hình, để lãnh đạo toàn dân, toàn Đảng giành
được những thắng lợi mới trong thời kì mở cửa hội nhập kinh tế thị trường.
Vì
vậy, để xây dựng được một Đảng chính trị vững mạnh thì cần phải làm tốt công
tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng của Hồ Chí Minh. Hiện nay các thế
lực thù địch và phần tử xấu đã triệt để
lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng bên ngoài, mạng Internet để tuyên
truyền xuyên tạc Đảng ta, chống phá công cuộc cách mạng của toàn Đảng, toàn dân
ta. Chúng cho rằng Nghi quyết Trung ương 4 ngày 16-1- 2012 được triển khai
“trong bầu không khí khủng hoảng chính trị” sau các vụ việc phức tạp ở Tiên Lãng
(Hải Phòng), ở Hưng Yên. Chúng cho rằng Việt Nam không có đa đảng đối lập do
vậy phải chủ động tạo ra sự đối lập, vì có đối lập mới có mâu thuẫn, mà mâu
thuẫn là động lực của sự phát triển; việc mở Hội nghị để chỉnh đốn chứng tỏ
Đảng đã suy thoái hay “chiến dịch chỉnh đốn Đảng đã chỉnh mà vẫn đốn”,… Chúng
nói rằng Việt Nam phải đưa ra vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng cho thấy nguy cơ
thực sự đe dọa sự tồn vong của Đảng không phải từ xa, từ bên ngoài mà từ trong
nội bộ của Đảng, từ những đảng viên biến chất; hay những luận điệu “Đảng chỉ
sửa lỗi hệ thống kiểu giật gấu vá vai, là sự tụt hậu về ý thức hệ, không tránh
khỏi nguy cơ sụp đổ, nhất là từ Đại hội VI đến nay”
Nguy hiểm hơn là hiện nay một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo,
quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ
nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa
địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc .
Đội
ngũ cán bộ cấp trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng nhưng chưa được xây
dựng một cách cơ bản. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung thực hiện ở địa
phương, chưa thực hiện được ở cấp trung ương, dẫn đến sự hẫng hụt, chắp vá,
không đồng bộ và thiếu chủ động trong công tác bố trí, phân công cán bộ. Một số
trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật công tâm, khách quan, không vì yêu
cầu công việc, bố trí không đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng đến uy tín cơ
quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả nước.
Nguyên
tắc "tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách" trên thực tế ở nhiều nơi
rơi vào hình thức, do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa
tập thể và cá nhân, khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm. Do vậy,
vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không
khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm, tạo kẽ
hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh
vi để mưu cầu lợi ích cá nhân.
Vì
vậy, trong tiểu luận này, chúng ta cần đi sâu, nghiên cứu, tìm ra những vấn đề
còn tồn tại trong công tác xây dựng và chỉnh đốn đảng trong thời gian qua, từ
đó tìm ra những giải pháp và phương hướng để khắc phục, xây dựng và chỉnh đốn
Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Bàn về vấn đề xây dựng, chỉnh
đốn Đảng. Có rất nhiều những bài viết, tham luận của những nhà lí luận chính trị,
sách báo, tuy nhiên, những bài viết này đó mới chỉ đánh giá, phân tích một một
cách chung chung về vấn đề xây dựng chỉnh đốn Đảng. hiện nay thì rất ít hay là
chưa có những bài viết tham luận về vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Tìm
hiểu “ Vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay” nhằm để hiểu sâu
sắc hơn và làm phong phú thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn và
đổi mới Đảng ; đồng thời, nhận thức sâu hơn về quan điểm, phương hướng hành
động của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, củng cố niềm tin đối với
Đảng, ghóp phần thắng lợi đường lối đổi mới toàn diện đất nước.
-
Đối tượng nghiên cứu : Xây dựng, chỉnh đốn, Đảng ta theo Tư
tưởng Hồ Chí Minh .
-
Phạm vi nghiên cứu : Bài nghiên cứu chỉ nghiên cứu
những nội dung chủ yếu về xây dựng chỉnh đốn Đảng. Bài nghiên cứu được thực
hiện tại Trường đại học Sư Phạm TP.HCM
Hệ thống quan điểm, tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đăc biệt là quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới, chỉnh đốn Đảng.
Bài nghiên cứu sử dụng các phương pháp lịch sử và logic, phương pháp phân
tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, thống nhất giữa cái chung và cái riêng.
- Tiểu luận có thể làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu giảng dạy về Tư tưởng Hồ Chí Minh, Xây dựng Đảng.
B. NỘI DUNG
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH CỦA ĐẢNG TA VÀO CÔNG TÁC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY
1.2 Thực trạng
Hơn 84
năm qua, kể từ khi Đảng ra đời, Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam di từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác, viết tiếp những trang sử vẻ vang của dân tộc ; tiến
hành Cách mạng tháng Tám thành công, đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược
của đế quốc thực dân, xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp
giải phóng dân tộc, thong nhất đất nước ; tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.
Từ cuối những năm 70 của thế kỷ trước, trong quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng ta đã mắc phải những sai lầm. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI
(12/1986), Đảng ta đã đề quyết sách” Đổi
mới toàn diện đất nước”. Đại hội khẳng định “ Đối với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách
mạng, là vần đề có ý nghĩa sống còn”.
Đường lối đổi mới tiếp tục được Đại học VII khẳng định. Đặt biệt, từ Hội nghị
Trung ương lần 6 ( lần 2) khóa VIII Đảng đề ra Nghị Quyết về một số vần đề cơ
bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng, đồng thời, mở cuộc vận động xây
dựng chỉnh đốn Đảng rộng khắp và đã thu được nhiều thành tựu quan trọng.
Với tinh thần tự phê
bình và phê bình, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn hoạt động của Đảng, Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X của Đảng đã nghiêm túc kiểm điểm những tồn tại
trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao nâng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng. Đại hội IX của Đảng ( 4/2001) cũng thẳng thắn chỉ ra rằng :
“ Tình trạng tha nhũng, suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là
rất nghiêm trọng. Nạn tham nhung kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và
trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ de dọa sự sống còn của chế độ ta.
Tình trạng lãng phí, quan lieu còn khá phổ biến”.
Mới
đây Ngày 16/1/2012, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số
12-NQ/TW - Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
XI): Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Kết quả thực hiện
nghị quyết, nhìn chung Đảng ủy và Cấp ủy các Chi bộ đoàn kết thống nhất, thực
hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, cá nhân phụ trách, đã chỉ đạo thực hiện
tốt nhiệm vụ chuyên môn, lãnh đạo, chỉ đạo CBCCVC, người lao động chấp hành tốt
các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Không
giao động, mơ hồ, mất phương hướng. Đồng thời, xác định rõ quyền hạn và trách
nhiệm cá nhân trong việc thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao, thực hiện tốt
mối quan hệ, quyền hạn, trách nhiệm của tập thể lãnh đạo, tập thể Cấp ủy; không
chồng chéo giữa công tác chuyên môn với công tác Đảng; không có tình trạng nể
nang, né tránh, ngại va chạm, cục bộ. Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở
đảng viên và CBCCVC hoàn thành tốt chức trách nhiệm vụ được giao.
Đối
với cá nhân: Các đồng chí trong Ban Giám đốc Sở, BCH Đảng bộ và đảng viên
có tư tưởng chính trị, quan điểm lập trường kiên định, vững vàng, không có biểu
hiện suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống. Không vi phạm những điều Đảng
viên không được làm; không có biểu hiện chạy chức, chạy quyền, độc đoán, chuyên
quyền, quan liêu, hách dịch, tham nhũng, vô tổ chức, vô kỷ luật. Thực hiện tốt
nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, đảm bảo tốt nguyên tắc tập
trung dân chủ. Không để vợ con, người thân lợi dụng chức vụ để trục lợi.
Tuy nhiên, qua kiểm điểm
vẫn còn một số hạn chế:
Đối với tập thể: Do đội ngũ cán bộ thiếu đồng bộ
giữa số lượng và chất lượng; cán bộ trẻ, cán bộ nữ chưa đáp ứng yêu cầu theo.
Đầu tư cơ sở vật chất cho ngành còn hạn chế, công tác quản lý nhà nước về danh
lam thắng cảnh còn lúng túng, nhiều danh thắng xuống cấp nghiêm trọng. Công tác
triển khai thực hiện quy hoạch ngành còn hạn chế. Một số địa phương khai thác,
sử dụng thiết chế văn hóa - thể thao chưa hết công năng; Lãnh đạo Sở chưa dành
nhiều thời gian làm việc với cơ sở. Công tác kiểm tra, giám sát đối với Chi bộ,
đảng viên trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh còn hạn
chế.
Đối với cá nhân: Những hạn chế của tập thể trong đó
có trách nhiệm của từng cá nhân trong Lãnh đạo Sở, BCH Đảng bộ và đảng viên
trên lĩnh vực công tác, nhiệm vụ được giao theo 3 nội dung của Nghị quyết TW 4,
tập trung vào một số nội dung chủ yếu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, công
tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động của ngành; quan tâm đầu tư, sử dụng
cơ sở vật chất, thiết chế của ngành cần có hiệu quả hơn; xây dựng đội ngũ cán
bộ công chức trong ngành phải đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đề ra.
1.3 Nguyên nhân
Tình trang suy thoái về
đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong những năm đổi mới đã
được các Đại hội Đảng và Hội nghị Trưng ương nhìn nhận một cách thẳng thắng,
nghiêm túc. Những khuyết điểm và yếu kém nói trên do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan khác nhau :
-
Tuy
duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới. Một số vấn đề ở tầm quan điểm,
chủ trương lớn chưa được làm rõ nên chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận
thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách, chỉ đạo điều hành.
-
Sự
chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt. Ba lĩnh vực được coi là ba khâu đột phá
cũng như viêc xây dựng một số công trình trọng điểm của quốc gia chưa được chỉ
đạo tập trung, thực hiện thiếu tinh thần trách nhiệm. tình trạng nói nhiều làm
ít, làm không đến nơi đến chốn hoặc không làm, không thực hiện còn diễn ra ở
nhiều nơi. Hiệu lực quản lý nhà nước còn thấp trên một số lĩnh vực, công tác
kiểm tra, thanh tra còn thiếu hiệu lực.
-
Một
bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt của Đảng, Nhà nước còn
yêu kém về phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu vừa
không đủ trình độ hoàn thành nhiệm vụ.
2.1 TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TRONG CÔNG
CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
2.1.1. Đặc điểm tình hình của thời kỳ mới
Từ thực tiễn hơn 20 năm đổi mới đã
chứng minh đường lối đổi mới toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và
thực hiện là đúng đắn, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua những thử thách to lớn,
tạo ra được những thành tựu quan trọng góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng
hoảng kinh kinh tế - xã hội hoàn thành nhiệm vụ đề ra cho giai đoạn đầu của thời
kỳ quá độ, bước sang giai đoạn cách mạng mới thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Nước ta tiến hành đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động phức tạp vừa
tạo ra những cơ hội, thời cơ những cũng tạo ra những thách thức, nguy cơ lớn.
Những nguy cơ đó là: các thế lực thù địch âm mưu “diễn biến hòa bình”, nguy cơ
tụt hậu xã hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và thế giới đang là
một vấn đề lớn, nguy cơ chệnh hướng xã hội chủ nghĩa xã hội cùng là một điều lo
ngại, ngoài ra nạn tham nhũng, tham ô được xem là “quốc nạn”.
Những thành tựu về yếu kém trong
công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo
của Đảng. Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta khẳng định: “Trong công tác xây dựng
Đảng, bên cạnh những ưu điểm đang nổi lên một số mặt yếu kém và khuyết điểm,
nhất là khuyết điểm về công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ đảng viên
chưa ngăn chặn và đẩy lùi được sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống. Một số tổ chức đảng ở các cấp chưa được chỉnh đốn, dân chủ bị vi phạm, kỷ
luật, kỷ cương lỏng lẻo, nội bộ không đoàn kết, chất lượng sinh hoạt đảng giảm
sút, công tác tư tưởng, công tác lý luận còn yếu kém, bất cập, công tác cán bộ
còn một số biểu hiện trì trệ. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn
lúng túng” [12,146].
Trong tình hình mới, Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X, Đảng xác định: “Trong những năm tới, phải dành nhiều công
sức tạo được chuyển biến rõ rệt về xây dựng Đảng, phát huy truyền thống cách
mạng, bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng
thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đoàn kết
nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học,
có đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực. Đây là nhiệm vụ then
chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”.
2.1.2. Phương hướng xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam ; đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.
Để Đảng thực hiện tốt nhiệm vụ tiên phong của mình, Đại hội Đại biểu lần thứ X
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định cần đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng:
2.1.2.1. Nâng cao bản lĩnh chính trị và
trình độ trí tuệ của Đảng
Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tổng kết
thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn những vấn đề do
cuộc sống đặt ra.
Nâng cao trình độ trí tuệ, chất lượng nghiên cứu lý luận của Đảng; tiếp
tục làm sáng tỏ những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội của nước ta; làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đường lối, chính sách của
Đảng trong thời kỳ mới.
Đổi mới công tác giáo dục lý luận
chính trị, tư tưởng trong Đảng, trước hết cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản
lý chủ chốt các cấp; đổi mới nội dung, phương pháp học tập và giảng dạy trong
hệ thống trường chính trị, nâng cao tính thiết thực và hiệu quả của chương
trình.
Củng cố, nâng cao chất lượng các cơ
quan chuyên ngành về công tác tư tưởng, lý luận. Tăng cường số lượng, chất
lượng đội ngũ cán bộ tư tưởng, lý luận, nhất là cán bộ chủ chốt. Tiến hành đồng
bộ công tác tư tưởng, công tác lý luận, gắn với công tác tổ chức - cán bộ và
phát triển kinh tế; chống sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối
sống. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng; phê phán, bác
bỏ các quan điểm sai trái, thù địch.
2.1.2.2. Kiện toàn và đổi
mới hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
Mỗi tổ chức cơ sở đảng có trách
nhiệm tổ chức và quy tụ sức mạnh của toàn đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị
được giao; làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý và giám sát
đảng viên; đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực, suy thoái trong Đảng. Nâng
cao chất lượng sinh hoạt chi bộ đảng.
Kiện toàn hệ thống tổ chức cơ sở
đảng. Xác định vị thế pháp lý, thể chế hoá về mặt nhà nước vai trò, chức năng,
nhiệm vụ của các loại hình cơ sở. Chú ý xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong các
doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, ở vùng sâu, vùng xa. Tập trung củng cố các cơ sở yếu kém.
Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự
tiên phong, gương mẫu, có phẩm chất, đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ
luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ; kiên định lập trường giai cấp công nhân,
phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng; năng động, sáng tạo, vững vàng trước
mọi khó khăn, thử thách.
Đảng viên làm kinh tế tư
nhân phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh
chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
Sớm có quy định và chỉ đạo thực
hiện, bảo đảm vừa phát huy khả năng làm kinh tế của đảng viên, vừa giữ được tư
cách đảng viên và bản chất của Đảng.
Phân công đảng viên đúng người,
đúng việc, tạo điều kiện để đảng viên hoàn thành nhiệm vụ. Thường xuyên tự phê
bình và phê bình trong sinh hoạt đảng. Động viên quần chúng giám sát, nhận xét,
góp ý kiến với đảng viên. Kịp thời đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư
cách.
Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng
viên gắn với việc nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng. Đẩy mạnh và bảo đảm
chất lượng công tác phát triển Đảng. Chú trọng trẻ hoá và nâng cao trình độ của
đảng viên; lấy đạo đức làm gốc, đồng thời bồi dưỡng về kiến thức, trí tuệ, năng
lực để làm tròn nhiệm vụ người lãnh đạo, người đi tiên phong trong các lĩnh vực
công tác được giao.
2.1.2.3. Thực hiện nghiêm
túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; tăng cường quan hệ gắn bó giữa
Đảng với nhân dân; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
Phát huy dân chủ đi đôi với giữ gìn
kỷ luật trong Đảng. Mọi cán bộ, đảng viên có quyền tham gia quyết định công
việc của Đảng; quyền được thông tin, thảo luận, tranh luận, nêu ý kiến riêng,
bảo lưu ý kiến trong tổ chức.
Lãnh đạo các cấp phải lắng nghe ý
kiến của cấp dưới, của đảng viên và nhân dân. Xây dựng quy chế ra quyết định
của Đảng, bảo đảm phát huy trí tuệ tập thể; có cơ chế để nhân dân bày tỏ ý kiến
đối với những quyết định lớn, tham gia các công việc của Đảng; khắc phục lối
làm việc quan liêu, xa dân.
Hoàn thiện quy chế bảo đảm quyền
kiểm tra, giám sát của tập thể đối với cá nhân, của tổ chức đối với tổ chức,
của cá nhân đối với cá nhân và tổ chức, kể cả đối với người lãnh đạo chủ chốt
và tổ chức cấp trên. Kết hợp giám sát trong Đảng với giám sát của Nhà nước và
giám sát của nhân dân.
Xây dựng quy chế giám sát và phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân
đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của
Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ.
Đổi mới phương pháp kiểm tra và bổ sung chức năng giám sát cho uỷ ban
kiểm tra đảng các cấp. Tăng cường công tác kiểm tra, phòng ngừa. Xây dựng quy
chế phối hợp công tác giữa Uỷ ban Kiểm tra của Đảng với Thanh tra của Chính
phủ.
2.1.2.4.
Đổi mới tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ
Sắp xếp, đổi mới tổ chức, bộ máy
của Đảng, đặc biệt là các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng uỷ khối ở Trung ương
và các địa phương gắn với kiện toàn tổ chức, bộ máy của cơ quan nhà nước, Mặt
trận và các đoàn thể nhân dân, bảo đảm tinh gọn, hoạt động thiết thực, hiệu
quả. Khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lặp; chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm của cơ quan và người đứng đầu không rõ. Phát huy vai trò của
các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà
nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Cải tiến lề lối làm việc, nâng cao
chất lượng nghiên cứu, đề xuất, tham mưu, hướng dẫn, kiểm tra của các cơ quan
tham mưu của Đảng. Tăng cường sự phối hợp giữa các ban cán sự đảng, đảng đoàn
với cấp uỷ địa phương.
Cán bộ phải là người có phẩm chất
chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, hết lòng phấn đấu
vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc; có bản lĩnh chính trị vững vàng, không
dao động trước những khó khăn, thử thách; có năng lực hoàn thành nhiệm vụ được
giao; có nhân cách và lối sống mẫu mực, trong sáng; có ý thức tổ chức kỷ luật
cao, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân.
Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có
cơ cấu hợp lý, chất lượng tốt, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế tiếp vững
vàng. Chú ý đào tạo cán bộ nữ, cán bộ các dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ
công nhân, chuyên gia trên các lĩnh vực; bồi dưỡng nhân tài. Đặc biệt quan tâm
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cao.
Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ,
bảo đảm thật sự dân chủ, khoa học, công minh. Xây dựng và hoàn thiện chế độ bầu
cử, cơ chế bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ; mở rộng quyền đề cử và tự ứng cử,
giới thiệu nhiều phương án nhân sự để lựa chọn.
Có cơ chế, chính sách phát hiện,
tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng người có đức,
có tài; thay thế kịp thời những người kém năng lực và kém phẩm chất, có khuyết
điểm nghiêm trọng. Khắc phục những biểu hiện cá nhân, cục bộ, không công tâm,
nể nang, tuỳ tiện trong công tác cán bộ.
Cụ thể hoá và thể chế hoá nguyên
tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi
với phát huy trách nhiệm của tổ chức và người đứng đầu của tổ chức trong hệ
thống chính trị về công tác cán bộ.
2.1.2.5. Đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng
Việc đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng phải đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị,
đổi mới kinh tế; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức,
sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
Tập trung đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan
điểm, các nghị quyết; lãnh đạo thể chế hoá, cụ thể hoá thành Hiến pháp, pháp
luật, kế hoạch, các chương trình công tác lớn của Nhà nước; bố trí đúng cán bộ
và thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện.
Đảng lãnh đạo nhưng không bao biện,
làm thay Nhà nước; trái lại, phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của
Nhà nước trong quản lý đất nước và xã hội.
Khẩn trương xây dựng, hoàn thiện hệ
thống văn bản quy định cụ thể về nguyên tắc, nội dung và cơ chế Đảng lãnh đạo
đối với Nhà nước trong từng lĩnh vực: lập pháp, hành pháp, tư pháp và từng cấp,
từng loại hình tổ chức nhà nước.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tạo điều kiện để Mặt
trận và các đoàn thể xác định đúng mục tiêu, phương hướng hoạt động; đồng thời,
phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo trong xây dựng, đổi mới tổ chức và hoạt
động của mình.
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác
cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị, thực hiện luân
chuyển cán bộ, khắc phục tình trạng khép kín, cục bộ về cán bộ. Tăng cường
trách nhiệm của cán bộ, đảng viên là thủ trưởng cơ quan nhà nước. Cơ quan nào
vi phạm chính sách, pháp luật, để xảy ra tình trạng tiêu cực, mất đoàn kết nội
bộ thì người đứng đầu phải chịu trách nhiệm. Đổi mới phương thức lãnh đạo gắn
với đổi mới phong cách và lề lối làm việc thật sự dân chủ, thiết thực
C. KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong những di sản cực kỳ
quan trọng để lại cho dân tộc Việt Nam, nó là một hệ thống lý luận với những
nội dung hết sức phong phú từ việc xác định vai trò lãnh đạo của chính đảng của
giai cấp vô sản đến xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, từ nguyên tắc
lãnh đạo của Đảng đến tư cách đạo đức của người cán bộ, đảng viên.
Luận điểm của Hồ Chí Minh về “Đảng phải thường xuyên tự chỉnh
đốn, tự đổi mới” đến nay
vẫn còn nguyên giá trị, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, nhiều vấn đề
bức xúc trong điều kiện nền kinh tế thị trường đòi hỏi Đảng phải tuân thủ
nghiêm ngặt những luận điểm của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản nói chung, về xây
dựng chỉnh đốn Đảng nói riêng.
Với đề tài nghiên cứu này, tác giả đã
phần nào làm rõ thêm luận điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh “Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới”
và sự vận dụng của Đảng ta vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai
đoạn hiện nay”, đó là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Do
đó, là nhiệm vụ then chốt, cấp bách hàng đầu có ý nghĩa sống còn của Đảng.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ø Sách
[1]. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia,
H.2003
[2]. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị Quốc gia, H.2006
[3]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2,
Nxb Chính trị Quốc gia, H.2000
[4]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4,
Nxb Chính trị Quốc gia, H.2000
[5]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5,
Nxb Chính trị Quốc gia, H.2000
[6]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7,
Nxb Chính trị Quốc gia, H.2000
[7]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8,
Nxb Chính trị Quốc gia, H.2000
[8].Hồ Chí Minh: Về xây dựng Đảng,
Nxb Sự thật, H.2000
[9].Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2001
[10].Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2006
Ø Wedsite:
[1]. http://www.xaydungdang.org.vn/
[2]. http://nguoilambao.vn/
[3].
http://dantri.com.vn/event/hoc-tap-trien-khai-nghi-quyet-trung-uong-4-1917.htm
Utopia/NCC
0 Comments