Lý
do chọn đề tài:
Khi đặt vấn đề nghiên cứu về văn hóa
thương nghiệp Việt Nam, Tôi băn khoăn trước câu hỏi: Việt Nam vốn là nước có
truyền thống nông nghiệp, đa phần dân số làm nghề nông, với nền kinh tế tự túc
tự cấp, trong suốt một thời kỳ lịch sử lâu dài, người nông dân Việt Nam chỉ
loanh quanh sau lũy tre làng, bản thân nghề kinh doanh không được coi trọng trong
các xã hội phong kiến Việt Nam, vậy người Việt Nam có văn hóa kinh doanh truyền
thống hay không?
Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu về văn hóa thương
nghiệp, Tôi nhận thấy hầu hết các bài
viết chỉ nói về những vấn đề văn hóa thương nghiệp, văn hóa doanh nghiệp trong
xã hội hiện đại, mà hầu như không quan tâm đến văn hoá thương nghiệp truyền
thống của người Việt Nam.
Theo quan điểm của tôi, văn hóa là một hình thái ý thức xã
hội, phản ánh điều kiện vật chất và sinh hoạt vật chất của xã hội. Vì vậy, văn
hóa thương nghiệp của một xã hội, về thực chất, là sự phản ánh thực tiễn hoạt
động sản xuất thương nghiệp của xã hội đó. Cho nên, những hoạt động thương
nghiệp của người Việt Nam trong xã hội truyền thống ít nhiều vẫn được phản ánh
bởi văn hóa thương nghiệp truyền thống của họ. Để tìm hiểu hoạt động thương
nghiệp và văn hóa thương nghiệp của người Việt Nam trong xã hội phong kiến,
nhằm giúp cho hậu thế có cái nhìn toàn diện hơn về văn hoá thương nghiệp của
Việt Nam trong suốt một thời kỳ dài chín thế kỷ, từ đó rút ra những bài học cho
công cuộc phát triển kinh tế trong thời đại ngày nay.
Chính vì thế tôi chọn đề tài : Nguyên cứu văn hoá thương nghiệp của
Việt Nam trong thời kỳ Phong Kiến tự chủ ( năm 938 đến cuối thế kỷ XIX). Làm đề
tài nguyên cứu khoa học.
Tình
hình nghiên cứu: Qua
nghiên cứu, tìm hiểu về các công trình và đề tài nghiên cứu khoa học về kinh tế
và thương nghiệp. Tôi nhận thấy hầu
hết các bài viết chỉ nói về những vấn đề văn hóa thương nghiệp, văn hóa doanh
nghiệp trong xã hội hiện đại, mà hầu như không quan tâm đến văn hoá thương
nghiệp truyền thống của người Việt Nam. Có thể, đa phần các nhà nghiên cứu
trong lĩnh vực này đều cho rằng, trong lịch sử nghề thương nghiệp không được
phát triển; vì vậy, văn hóa thương nghiệp truyền thống Việt Nam không có gì để
nói.
-
Đối tượng nghiên cứu:
đề tài nghiên cứu các quy luật và hoạt động thương nghiệp chủ yếu trong văn hoá
thương nghiệp Việt Nam thời kỳ Phong kiến tự do (năm 938 –cuối TK XIX).
-
Phương pháp nghiên cứu:
đề tài này nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử cụ thể; ngoài ra đề tài còn sử dụng phương pháp logic và liệt kê các giai
đoạn lịch sử dựa trên nghiên cứu các tài liệu lịch sử chính thống về thời kỳ
phong kiến tự do Việt Nam.
-
Mục đích nghiên cứu:
giúp cho chúng ta có cái nhìn toàn diện và bao quát hơn về văn hoá thương
nghiệp của Ông/cha trong suốt một thời kỳ chín thế kỷ đã bị lãn quên. Từ đó rút
ra những bài học cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay.
-
Những đóng góp của đề tài:
Đề tài này có những cống hiến khoa học như sau:
1/. Phát hiện ra những nét văn hóa thương nghiệp truyền
thống của dân tộc, như trọng chữ tín, yêu chuộng sự chân thật, thái độ hòa nhã,
sự mềm dẻo, linh hoạt, v.v.
2/. Việc tìm hiểu hoạt
động và văn hóa thương nghiệp cổ
truyền này là điều rất quan trọng; bởi đây là điểm xuất phát để nghiên cứu, làm
sáng tỏ những vấn đề của hoạt động thương nghiệp và văn hóa thương nghiệp Việt
Nam.
TIẾN ĐỘ NGHIÊN CỨU
Thời gian
|
Nội dung thực hiện
|
Người thực hiện
|
Người hướng dẫn
|
Ghi chú
|
10/9/2013 – 26/9/2013
|
Nghiên cứu chọn đề tài
|
Nguyễn Anh Khoa
|
||
26/9/2013 – 02/10/2013
|
Soạn đề cương nghiên cứu nộp về
Khoa
|
Nguyễn Anh Khoa
|
||
Dự trù
|
||||
Dự trù
|
Khi đặt vấn đề nghiên cứu về văn hóa kinh doanh Việt Nam,
chúng tôi băn khoăn trước câu hỏi: Việt Nam vốn là nước có truyền thống nông
nghiệp, đa phần dân số làm nghề nông, với nền kinh tế tự túc tự cấp, trong suốt
một thời kỳ lịch sử lâu dài, người nông dân Việt Nam chỉ loanh quanh sau lũy
tre làng, bản thân nghề kinh doanh không được coi trọng trong các xã hội phong
kiến Việt Nam, vậy người Việt Nam có văn hóa kinh doanh truyền thống hay không?
Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu về văn hóa kinh doanh,
chúng tôi nhận thấy hầu hết các bài viết chỉ nói về những vấn đề văn hóa kinh
doanh, văn hóa doanh nghiệp trong xã hội hiện đại, mà hầu như không quan tâm
đến văn hóa kinh doanh truyền thống của người Việt Nam. Có thể, đa phần các nhà
nghiên cứu trong lĩnh vực này đều cho rằng, trong lịch sử nghề kinh doanh không
được phát triển; vì vậy, văn hóa kinh doanh truyền thống Việt Nam không có gì
để nói.
Theo quan điểm của chúng tôi, văn hóa là một hình thái ý
thức xã hội, phản ánh điều kiện vật chất và sinh hoạt vật chất của xã hội. Vì
vậy, văn hóa kinh doanh của một xã hội, về thực chất, là sự phản ánh thực tiễn
hoạt động sản xuất kinh doanh của xã hội đó. Cho nên, những hoạt động kinh
doanh của người Việt Nam trong xã hội truyền thống ít nhiều vẫn được phản ánh
bởi văn hóa kinh doanh truyền thống của họ. Để tìm hiểu hoạt động kinh doanh và
văn hóa kinh doanh của người Việt Nam trong xã hội phong kiến, trước hết chúng
ta cần làm rõ về khái niệm kinh doanh và văn hóa kinh doanh.(*)
Khái niệm kinh doanh
Ngày nay, kinh doanh được hiểu là loại hình hoạt động kinh
tế đặc thù trong quá trình sản xuất, khai thác, chế biến, buôn bán hàng hóa và
dịch vụ với chức năng cơ bản là tìm kiếm những nhu cầu của xã hội chưa được đáp
ứng và tập hợp những nguồn lực cần thiết để đáp ứng các nhu cầu đó. Luật Doanh
nghiệp Việt Nam xác định: “Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả
các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung
ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”(1).
Còn trong quan niệm truyền thống, kinh doanh được hiểu đơn
giản là cách làm giàu của con người trên thương trường, là hành vi buôn bán để
kiếm lợi. Tuy nhiên, dù hiểu khái niệm này theo nghĩa truyền thống hay hiện đại
thì một điều chắc chắn là trong mỗi hoạt động kinh doanh tối thiểu phải có hai
nhân vật tham gia là chủ thể kinh doanh và khách hàng - đối tượng của chủ thể
kinh doanh đó. Hai nhân vật này luôn ràng buộc, gắn bó, quy định lẫn nhau.
Khách hàng cần hàng hóa, dịch vụ của chủ thể kinh doanh để thỏa mãn nhu cầu của
mình. Còn chủ thể kinh doanh lại cần khách hàng mua hàng hóa hay dịch vụ của
mình để có thể thu được lợi nhuận, nhờ đó có thể duy trì và phát triển công
việc kinh doanh.
Khái niệm văn hóa kinh doanh
Văn hóa gắn liền với sự tồn tại của con người. Thước đo giá
trị nhân bản của con người là văn hóa, là những hành động gắn liền với chân,
thiện, mỹ. Theo nghĩa đó, một hoạt động của con người được đánh giá là có hàm
lượng văn hóa cao khi nó gắn bó với những giá trị chân, thiện, mỹ (tất nhiên
những chuẩn mực của chân, thiện, mỹ có tính chủ quan, việc xem xét những giá
trị đó phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể; song, bao giờ nó cũng có những chuẩn
mực chung nhất trong từng xã hội và chuẩn mực mang tính phổ quát đối với toàn
nhân loại). Nói cách khác, những hoạt động nào càng hướng đến cái đúng, cái
tốt, cái đẹp đem lại những giá trị tích cực cho cộng đồng thì hoạt động đó càng
biểu hiện rõ tính nhân bản, tính văn hóa.
Khi kết hợp những giá trị văn hóa vào
trong hoạt động kinh doanh sẽ làm cho cái lợi gắn bó với cái đúng, cái tốt, cái
đẹp. Bản chất của hoạt động kinh doanh là để kiếm lợi. Tuy nhiên, kinh doanh
như thế nào để cái lợi gắn liền với cái thiện, cái tốt, cái đẹp thì đó là vấn
đề thuộc về văn hóa kinh doanh. Từ đó, có thể hiểu văn hóa kinh doanh là một
bộ phận cấu thành nền văn hóa chung của một dân tộc, phản ánh hoạt động kinh
doanh và mức độ gắn kết giữa cái lợi với những giá trị chân - thiện - mỹ của
con người trong từng giai đoạn lịch sử.
Bản chất của văn hóa kinh doanh là sự gắn kết giữa cái lợi
mà con người đạt được trong quá trình kinh doanh với cái chân - thiện - mỹ là
những giá trị mang tính nhân bản cao quý của con người (tức là hành vi kiếm lợi
dựa trên cơ sở của những giá trị mang tính nhân văn). Văn hóa kinh doanh của
một cộng đồng, dân tộc phụ thuộc vào thực tiễn hoạt động kinh doanh và hoàn
cảnh kinh tế, văn hóa - xã hội cụ thể. Vì vậy, mức độ đậm nhạt của văn hóa kinh
doanh thể hiện khác nhau trong từng xã hội, tùy theo tính chất của các hoạt
động kinh doanh và tâm lý xã hội của từng cộng đồng, dân tộc đối với hoạt động
kinh doanh. Theo đó, có thể khẳng định, văn hóa kinh doanh Việt Nam đã được
hình thành từ lâu đời và phát triển theo sự phát triển của xã hội, của thực
tiễn hoạt động kinh doanh ở Việt Nam.
Vài nét về hoạt động kinh doanh ở Việt Nam
trong thời kỳ phong kiến
Các tư liệu lịch sử đã ghi lại, trong thời kỳ Bắc thuộc ở
Việt Nam có một vùng đất được coi là trung tâm kinh tế thương mại lớn có tính
quốc tế, đó là Luy Lâu, Long Biên thuộc vùng Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Tuy nhiên, do chính quyền đô hộ độc quyền nắm giữ và kiểm soát nên giao lưu
giữa người Việt Nam và người nước ngoài gặp không ít khó khăn. Hàng Việt Nam
bán ra nước ngoài thường là các loại lâm thổ sản quý, đồ mỹ nghệ, v.v.. Hàng
nhập từ nước ngoài vào Việt Nam thường là thuốc men, đồ sắt, v.v..(2)
Cùng với quá trình giao lưu hội nhập, trao đổi kinh tế là
quá trình tiếp xúc và hội nhập văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo giữa nước ta với
các nước trong khu vực. Tại đây, tư tưởng Nho giáo và văn hóa Hán – Đường đã
được truyền bá liên tục vào nước ta chủ yếu thông qua hoạt động của bộ máy
thống trị và tầng lớp quan lại. Bắc Ninh với trung tâm Luy Lâu là nơi đầu tiên
có trường dạy chữ và văn hóa Hán ở Việt Nam(3).
Năm 938, chiến thắng của Ngô Quyền trên
sông Bạch Đằng đã mở ra thời kỳ phong kiến dân tộc tự chủ ở Việt Nam. Trong
thời kỳ này, nhà nước phong kiến đã thi hành chính sách “dĩ nông vi bản”, từ đó
đi tới tư tưởng “trọng nông, ức thương”. Trong xã hội, người dân chỉ xác định
có bốn nghề sĩ, nông, công, thương, trong đó chỉ có hai nghề sĩ và
nông là được xã hội đề cao: “nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông,
nhất nông nhì sĩ”. Hai nghề còn lại là công và thương thì ít
được chú trọng hơn. Đặc biệt, nghề thương vốn không được xã hội coi
trọng và thường có định kiến, thậm chí miệt thị: “buôn gian, bán lận”, “thật
thà cũng thể lái trâu, yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng”.
Thái độ của xã hội đối với bốn nghề trên được thể hiện trong
một bức tranh di cảo tìm được ở Bắc Ninh. Bức tranh vẽ bốn người thể hiện cho
bốn nghề khác nhau trong xã hội: nghề sĩ được thể hiện qua hình vẽ một
ông thầy đồ mặt mũi quắc thước, râu dài đang trầm ngâm viết chữ nho; thể hiện
cho nghề nông là một nam nông dân khỏe mạnh, đĩnh đạc; thể hiện cho nghề
công là một phụ nữ gầy gò ốm yếu, mặt nhăn nhúm, tay đang in từng tờ
tiền vàng mã. Nghề thương được thể hiện bằng hình ảnh một người đàn ông
có nét mặt tinh quái đang ấn chiếc chạc trâu vào tay người nông dân. Chiếc chạc
đó nối với con trâu đực gầy gò, sừng doãng (trâu sừng doãng là loại trâu ương
bướng, khó bảo, không chịu cày bừa nên chỉ nuôi để lấy thịt) – ý ám chỉ người
buôn trâu lừa người mua – “buôn gian, bán lận”(4). Bức di cảo trên thể hiện rất
rõ sự kỳ thị đối với nghề kinh doanh, đồng thời cũng là một bằng chứng cho thấy
vì sao trong lịch sử người Việt Nam không khuyến khích đi vào hoạt động kinh
doanh, vì sao nghề kinh doanh ở Việt Nam chậm phát triển.
Theo các tài liệu lịch sử, từ thế kỷ
XVI đến thế kỷ XVIII, xã hội phong kiến Việt Nam có những tiến bộ về thủ công
nghiệp và thương mại. Thời gian này những làng, phường thủ công nghiệp, như gốm
Bát Tràng (Hà Nội), dệt Thổ Hà (Bắc Giang), dệt Phú Xuân (Thừa Thiên), v.v. đã
được mở ra. Trong các phường thủ công nghiệp đã diễn ra sự phân hóa chủ thợ (ở
Phú Xuân đã có những xưởng dệt thuê 13 thợ). Những hình thức bao mua sản phẩm,
thuê mướn nhân công đã xuất hiện, đánh dấu những mầm mống manh nha của chủ
nghĩa tư bản.
Cũng trong thời gian này, một số thành thị phong kiến đã trở
nên phồn thịnh, như Thăng Long, Phố Hiến, Hội An, v.v.. Nhiều người nước ngoài
đã đến đây sinh sống làm cho các hoạt động buôn bán trao đổi trở nên khá sầm
uất. Quan hệ buôn bán giữa Việt Nam với các quốc gia phương Tây, như Bồ Đào
Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, v.v. đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc
thúc đẩy sản xuất, canh tân đất nước. Tuy nhiên, đến thế kỷ XIX, nhà Nguyễn đã
thực hiện những chính sách kìm hãm giao lưu kinh tế, thi hành chính sách thuế
khóa nặng nề. Thậm chí, vì sợ nông dân tụ tập khởi nghĩa, Nhà nước phong kiến
thời Minh Mạng còn ra chính sách cấm họp chợ. Vì vậy, thương nghiệp và thủ công
nghiệp rơi vào khủng hoảng, bế tắc và không có cơ hội để phát triển.(4)
Như vậy, trong xã hội phong kiến Việt Nam, từ quốc sách của
Nhà nước cho đến tâm lý người dân đều coi nghề nông là nghề gốc, công thương là
nghề ngọn. Trên thực tế, hoạt động của công thương nghiệp chỉ diễn ra trong
khuôn khổ của nền kinh tế tự túc tự cấp. Tuy trên bề mặt xã hội, hoạt động kinh
doanh có sôi nổi trong một vài giai đoạn, nhưng do chính sách “dĩ nông vi bản”
và “bế quan tỏa cảng” của các triều đại phong kiến mà nghề kinh doanh không
được phát triển ở thời kỳ này.
Một số biểu hiện của văn hóa kinh doanh cổ
truyền Việt Nam
Nhìn chung, mặc dù xã hội phong kiến không coi trọng hoạt
động kinh doanh buôn bán, nhưng để duy trì cuộc sống hàng ngày thì hoạt động
mua bán, kinh doanh nhỏ lẻ, manh mún của người dân vẫn diễn ra. Vì vậy, chúng
ta chỉ có thể nhận diện được văn hóa kinh doanh của thời kỳ này qua những hoạt
động mua bán ở chợ làng trên khắp các miền quê, bởi mọi giao dịch mua bán, trao
đổi của người dân đều tiến hành ở chợ. Chỉ cần nhìn vào chợ quê, người ta cũng
có thể thấy đời sống kinh tế của người dân trong làng. Chợ làng chính là mô
hình thu nhỏ của nền kinh tế tự cung tự cấp. Người bán hàng và khách hàng đều
là dân trong một làng hoặc từ các làng xung quanh. Hàng hóa bán ở chợ hầu hết
là những sản phẩm “cây nhà, lá vườn”.
Chợ cũng là nơi lưu giữ tổng thể những nét văn hóa cũng như
tục lệ của người dân Việt. Bên cạnh việc trao đổi mua bán thông thường, chợ xưa
còn là nơi giao lưu tình cảm anh em, bạn bè, là nơi trao đổi thông tin về tình
hình gia đình, chòm xóm. Vì vậy, chợ chính là một nét văn hóa kinh doanh truyền
thống - “văn hóa kẻ chợ”, mang trong mình biểu trưng của sự hội tụ và
chắt lọc vừa cũ xưa, dung dị và hồn hậu, vừa tươi mới bởi sự sôi động, ồn ào.
Sự giao tiếp giữa người mua và người bán, nghệ thuật chào mời khách mua hàng,
cách rao hàng để thu hút sự chú ý, v.v., tất cả đều là những biểu hiện sinh
động của văn hóa kinh doanh.
Chợ còn là nơi thể hiện rất rõ đặc điểm
tâm lý tiêu dùng của người Việt truyền thống: do ít có điều kiện ra khỏi lũy
tre làng, người Việt có thói quen mua bán nhỏ, thích mua bán tại chợ, “tiện
đâu mua đấy”. Người dân trong làng chỉ tin cậy những gì quen thuộc,
e ngại những điều xa lạ; do hiểu biết về hàng hóa còn hạn chế, nên người Việt
Nam truyền thống có tâm lý “ăn chắc, mặc bền”. Trong cơ cấu tiêu dùng,
phần ăn đóng vai trò quan trọng nhất, rồi mới đến mặc và ở.
Cơ cấu bữa ăn thông thường là cơm, rau, cá, trong đó gạo (cơm) chiếm tỷ
lệ cao nhất. Vì giao lưu kinh tế với nước ngoài bị hạn chế, ít có cơ hội tiếp
xúc với hàng hóa nước ngoài nên nảy sinh tâm lý sính ngoại.
Khi tìm hiểu một số câu tục ngữ, ca dao nói về công việc
buôn bán của người Việt, chúng ta cũng có thể nhận diện được một số nét văn hóa
kinh doanh của người Việt Nam trong xã hội truyền thống. Mặc cho xã hội kỳ thị,
bản thân những người làm nghề buôn bán đã tự xây dựng những chuẩn mực cho nghề
của mình. Buôn bán thì phải có lãi, nhưng họ cũng bảo nhau “ăn lãi tùy chốn,
bán vốn tùy nơi” để còn giữ mối khách làm ăn lâu dài. Hoặc “trong vốn
thì nài, ngoài vốn thì buôn” làm sao để vừa thu được lợi nhuận, vừa không
làm mất khách. Câu “thuận mua vừa bán” trở thành kết quả lý tưởng và là
tiêu chí cho mọi cuộc giao dịch mua bán. Điều này sẽ đảm bảo cho sự cân bằng
lợi ích dẫn đến sự hài lòng của cả người bán lẫn người mua. Người bán luôn muốn
tạo dựng mối quan hệ với những người khách hàng quen thuộc, bởi “quen mặt
đắt hàng”.
Người buôn bán cũng phải biết giữ đạo đức trong kinh doanh.
Việc làm ăn theo kiểu “ăn xổi ở thì”, “treo đầu dê bán thịt
chó”, “bán mướp đắng giả làm bầu”, “bán mạt cưa giả
làm cám” là những hành vi dối trá bị cả xã hội tẩy chay, lên án.
Từ xa xưa, người Việt đã biết tìm hiểu tâm lý của người bán
hàng và người mua hàng: “bán hàng nói thách, làm khách trả rẻ”. Người
buôn bán cũng nhận thức rõ việc cần phải có nét mặt tươi tắn, lời nói nhỏ nhẹ,
hòa nhã, khéo léo thì mới có thể thu hút được khách mua hàng. Vì vậy, người ta
vẫn truyền nhau những câu như: “bán hàng chiều khách”, “bán
rao chào khách”, bởi lời nói rất quan trọng đối với người mua hàng -
“lời nói quan tiền, thúng thóc”.
Một nét văn hóa quan trọng khác là buôn bán nhưng phải biết
tiết kiệm, từ ngày xưa ông bà ta đã dạy: “buôn tàu, bán bè không bằng ăn dè
hà tiện”. “Hà tiện mới giàu, cơ cầu mới có”, “năng nhặt chặt bị”…
nghĩa là phải tiết kiệm, phải biết dùng số vốn đã tích lũy được đầu tư cho công
ăn việc làm để sinh thêm đồng lời nữa. Bởi vì, “tiền trong nhà tiền chửa,
tiền ra cửa tiền đẻ” còn nếu không thì cũng chỉ là “tiền dư thóc mục”(5).
Trong dân gian Việt Nam, có những bài ca dao nhắc nhủ người
làm kinh doanh phải chú trọng chữ tín, giữ gìn đạo đức của con người kẻo phải
chịu quả báo:
Tin nhau buôn bán cùng nhau,
Thiệt hơn hơn thiệt trước sau như là.
Hay gì lừa đảo kiếm lời,
Một nhà ăn uống tội trời riêng mang.
Theo chi những thói gian tham,
Phôi pha thực giả tìm đường dối nhau.
Của phi nghĩa có giàu đâu(6).
Bài ca dao trên mang đậm tư tưởng nhân
– quả của đạo Phật, nhìn thấy trước hậu quả của việc làm ăn bất chính. Phải
chăng người Việt xưa đã biết vận dụng cả những tư tưởng tôn giáo vào lĩnh vực
kinh doanh để gắn cái lợi với những giá trị chân, thiện, mỹ của con
người?
Trong hoạt động sản xuất, nhiều làng nghề thủ công của Việt
Nam cũng có những quy định nghiêm ngặt về đạo đức nghề nghiệp, về chữ tín đối
với khách hàng – đó cũng là một nét văn hóa kinh doanh truyền thống. Một ví dụ
tiêu biểu có thể kể đến là những người thợ chạm bạc của Đồng Xâm, Thái Bình. Họ
là những người thợ tài ba làm ra những sản phẩm bằng bạc tinh xảo nổi tiếng cả
nước, đáp ứng được nhu cầu cao của những khách hàng khó tính. Từ xưa đến nay,
thợ bạc Đồng Xâm luôn lấy chữ tín, chữ tài làm trọng. Họ giữ phẩm chất, lương
tâm người thợ và tinh hoa kỹ thuật nghề nghiệp của quê hương. Hương ước của
làng quy định chặt chẽ rằng, những người nào làm đồ giả để lừa người khác, gây
bất tín thì sẽ bị phạt thật nặng, bị đánh đòn trước nhà thờ Tổ hoặc bị xóa tên
trong phường(7).
Khó có thể nói nhiều về văn hóa kinh doanh truyền thống khi
bản thân nghề kinh doanh không được coi trọng và phát triển rất chậm trong xã
hội phong kiến Việt Nam. Tuy nhiên, không vì thế mà người Việt Nam không có văn
hóa kinh doanh truyền thống. Trên thực tế, những nét văn hóa truyền thống của
dân tộc, như trọng chữ tín, yêu chuộng sự chân thật, thái độ hòa nhã, sự mềm
dẻo, linh hoạt, v.v. đã được người Việt xưa vận dụng trong các hoạt động kinh
doanh thể hiện qua các câu tục ngữ nói về nghề kinh doanh. Thêm nữa, chính thái
độ kỳ thị nghề kinh doanh, sự bài xích những kẻ lừa đảo, làm ăn gian dối, v.v.
cũng là sự biểu hiện của văn hóa kinh doanh của dân tộc. Sự phản ứng đối những
hành vi lừa đảo, gian dối trong kinh doanh chính là sự cảnh báo, sự trừng phạt của
xã hội buộc những người làm kinh doanh phải điều chỉnh những hành vi của mình
nếu muốn được xã hội chấp nhận.(6)
Tóm lại, có thể khẳng định rằng, văn
hóa kinh doanh cổ truyền của người Việt Nam trong thời kỳ phong kiến còn mờ
nhạt do nghề kinh doanh không được coi trọng. Tuy vậy, việc tìm hiểu hoạt động
kinh doanh và văn hóa kinh doanh cổ truyền này là điều rất quan trọng; bởi đây
là điểm xuất phát để nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề của hoạt động kinh
doanh và văn hóa kinh doanh Việt Nam. /.
______________________________
(1) Điều
4 - Luật Doanh nghiệp Việt Nam, năm 2005.
(2) Xem: GS,TS. Nguyễn Trí
Dĩnh - PGS,TS. Phạm Thị Quý (chủ biên). Giáo trình Lịch sử kinh tế.
Nxb Thống kê, Hà Nội, 2004, tr.263.
(3) Xem: Trần Đình Nghiêm, Trần Hoàn, Nguyễn Phúc Khánh (chủ
biên). Phác thảo chân dung văn hóa Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2000, tr.367.
(4) Xem: PGS,TS. Nguyễn Bá Dương và
TS. Đức Uy (chủ biên). Giáo trình Tâm lý học kinh doanh. Viện Đại học
Mở, Hà Nội, 2007, tr.130.
(6) Xem: Phương Thu. Ca dao tục ngữ Việt Nam. Nxb Thanh
Niên, 2004, tr.185.
(7) www.simplevietnam.com
Utopia/NCC
0 Comments