ĐỀ TÀI:
ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG TRONG “SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC” – NỘI
DUNG VÀ VẬN DỤNG
Lớp :
3A-K37
MSV : K37605027
A. MỞ ĐẦU
Tác phẩm: “Sửa đổi lối làm việc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết xong tháng 10 năm 1947 ký tên XYZ- Nxb sư thật xuất bản lần đầu tiên năm
1948, xuất bản lần thứ 7 năm 1959. Từ khi ra đời đến nay, tác phẩm: “Sửa đổi
lối làm việc” luôn là văn kiện quan trọng về xây dựng Đảng. Tác phẩm được viết
trong một thời kỳ đặc biệt, với bản chất xâm lược và hiếu chiến, kẻ thù đã gửi
3 tối hậu thư trong 2 ngày, đòi chúng ta phải hạ vũ khí; chúng đã buộc chúng ta
phải cầm súng đứng lên bảo vệ nền độc lập. Cuộc kháng chiến trường kỳ càng khó
khăn, gian khổ yêu cầu sức chiến đấu của Đảng ngày càng cao. Để kịp thời chỉnh
đốn Đảng, phê bình những khuyết điểm, sai lầm, tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”
đã kịp thời ra đời để sửa đổi lối làm việc của Đảng. Được viết cách đây hơn 60 năm,
nhưng đến nay nội dung, tư tưởng tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị, là một trong
những tài liệu phục vụ cho việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh.
Qua việc học tập
và nghiên cứu tác phẩm: “Sửa đổi lối làm việc”, tôi nhận thấy nội dung, tư
tưởng của tác phẩm không những được vận dụng rất tốt cho môn học Xây dựng Đảng,
Lịch sử Đảng… mà còn được vận dụng hiệu quả trong việc giáo dục đạo đức sư phạm
cho sinh viên sư phạm hiện nay. Như chúng ta đã biết việc tìm hiểu, nghiên cứu tác
phẩm sửa đổi lối làm việc, làm theo những điều chỉ dẫn của Người mỗi câu, mỗi ý
tác phẩm này là việc rất bổ ít, thiết thực hiện nay, mỗi ý nói lên những việc
cụ thể cần làm và nên làm như thế nào để công tác của mỗi người, mỗi cơ quan,
mỗi đơn vị hoành thành, đi đến thắng lợi. Cũng vì nó có ý nghĩa to lớn đó cho
nên tôi quyết định chọn đề tài: “Đạo đức cách mạng trong “Sửa đổi lối làm
việc”- Nội dung và vận dụng”
Bàn về đạo đức
cách mạng trong tác phẩm “ Sửa đổi lối làm việc” thì có rất nhiều những bài viết,
tham luận của những nhà chính trị, nhà giáo dục nổi tiếng. Tuy nhiên, những bài
viết này đó mới chỉ đánh giá, phân tích nội dung cốt lỗi của vấn đề, rất ít hay là chưa có những bài viết tham luận
về việc vận dụng tư tưởng “Đạo đức cách mạng” vào việc giáo dục đạo đức cho
sinh viên sư phạm.
Đi vào phân tích nội dung đạo đức cách mạng, từ đó vận dụng vào việc giáo
dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường Đại học Sư phạm TP.HCM
Đối tượng nghiên cứu : “Đạo đức cách mạng trong
“Sửa đổi lối làm việc”- Nội dung và vận dụng”
- Phạm vi nghiên cứu : Bài nghiên cứu chỉ nghiên cứu nội dung đạo
đức cách mạng từ đó vận dụng cho việcgiáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
trường Đại học Sư Phạm TP.HCM.
+ Hệ thống quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin
- Bài nghiên cứu sử dụng
các phương pháp lịch sử và logic, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương
pháp so sánh,điều tra bảng hỏi, thống nhất giữa cái chung và cái riêng.
-
Tiểu luận có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu giảng
dạy về Tư tưởng Hồ Chí Minh, Lịch Sự Đảng, Dân Vận.
-
Phần vận dụng ta có thể làm tài liệu tham khảo trong một số
nghiên cứu về giáo dục nghiệp vụ sư phạm, đạo đức học ở các trường sư phạm Việt
Nam hiện nay, làm cho ngành sư phạm Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn.

Người là niềm tin tất thắng

B. NÔI DUNG
CHƯƠNG I : TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG TRONG TÁC PHẨM SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC
1.1 Vai trò của đạo đức
cách mạng
“Đạo đức là cái gốc của người cách mạng.”
Theo Hồ Chí Minh người cách mạng phải có đạo đức cách mạng.
Có đạo đức cách mạng thì người cán bộ mới được dân tin, dân phục, dân yêu, từ
đó thì người cán bộ mới có thể lãnh đạo được dân chúng làm cách mạng. Hồ Chí
Minh chỉ ra đối với người cán bộ, đảng viên không có đạo đức cách mạng thì tài
giỏi mấy cũng không thể lãnh đạo được dân chúng. Người coi đạo đức cách mạng là
gốc, là nền tảng vững chắc, là lý tưởng sống của người cách mạng. Nó là động cơ
bên trong, tạo ra sự thôi thúc to lớn để người cách mạng thực hiện, nó tăng
thêm sức mạnh bền bỉ giúp người cách mạng có đủ sức mạnh để suốt đời hy sinh
phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của đảng. Đạo đức cách mạng còn là nền tảng cho
những năng lực, tài năng của người cán bộ đảng viên phục vụ lợi ích cho cách
mạng, cho Tổ quốc, cho nhân dân. Trong tác phẩm “ Sửa đổi lối làm việc” Người viết: “Cũng như sông có nguồn mới có nước, không có nguồn thí sông cạn. Cây
phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không
có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải
phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự
mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì làm nổi
việc gì”(tr.252- 253, HCM tt).
Hồ Chí Minh cho rằng làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ
thành xã hội mới là một sự nghiệp hết sức vẻ vang, đồng thời đó cũng là nhiệm
vụ hết sức nặng nề, đó là một cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp, gian khổ, cũng
như người có sức mạnh mới gánh được xa, người cách mạng có đạo đức cách mạng
làm nền tảng mới hoàn thành nhiệm vụ một cách vẻ vang. Có đạo đức cách mạng thì
khi gặp khó khăn gian khổ, hoặc thậm chí bị thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè
hoặc lùi bước. Cũng nhờ có đạo đức cách mạng mà người cách mạng không ngần ngại
hy sinh tất cả lợi ích riêng của cá nhân mình, khi cần sẵn sàng hy sinh cả tính
mạng mình cho Đảng, Tổ quốc, cho nhân dân. Có đạo đức cách mạng thì khi gặp
thuận lợi, thành công, khó khăn hay thất bại đều một lòng quyết tâm vì lợi ích
của đảng, của dân tộc.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh
đạo đức là gốc, là nền tảng nhưng không phải là độc tôn, là đối lập với
những yếu tố khác đặc biệt là tài năng. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu đối với
mỗi người thì tài năng và đạo đức phải đi liền với nhau.
Trên thực tế thì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng với Đảng ta
để lại cho chúng ta một hệ thống quan điểm sâu sắc và toàn diện về đạo đức. Bản
thân Người là một tấm gương về đạo đức CM. Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh đã trở thành một bộ phận quan trọng trong nền tảng tinh thần của XH VN.
1.2 Nội dung đạo đức cách mạng
Khi nói về đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh đã đặt trong mối
tương quan giữa mới và cũ, Người chỉ ra đạo đức cách mạng là đạo đức mới, nó
khác hẳn về chất so với đạo đức cũ, nó không vì danh vọng, không vì lợi ích của
một cá nhân nào, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc và của loài người.
Hồ Chí Minh chỉ ra đạo đức của xã hội cũ là sự phản ánh lợi ích của giai cấp
bóc lột, là công cụ tinh thần để nô dịch nhân dân, củng cố địa vị thống trị của
các giai cấp bóc lột và vì lợi ích của thiểu số, trong khi đạo đức cách mạng
phản ánh lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn nhân
loại, là vũ khí tinh thần để giai cấp công nhân và nhân dân lao động giải phóng
mình và giải phóng nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh cho chúng ta thấy rõ đạo đức
cách mạng gắn bó một cách chặt chẽ, hữu cơ với sự nghiệp giải phóng giai cấp,
giải phóng dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam và mỗi đảng viên của Đảng phải
tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, suốt đời hy sinh cho sự nghiệp
cách mạng của Đảng, của dân tộc, ra sức phấn đấu thực hiện mục tiêu, lý tưởng
của Đảng, phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Hồ Chí Minh chỉ ra, đạo đức cách mạng còn phải kiên quyết
đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc. Người chỉ rõ, đạo đức cách
mạng hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa cá nhân - một thứ vi trùng rất độc, rất
nguy hiểm đối với sức mạnh của Đảng. Từ chủ nghĩa cá nhân sinh ra biết bao các
bệnh khác, như bệnh tham lam, bệnh lười biếng, bệnh kiêu ngạo bệnh hiếu danh,
thiếu kỷ luật,… hoàn toàn trái với bản chất cách mạng của Đảng, đi ngược lại
lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng còn là ra sức học tập
Chủ nghĩa Mác-Lênin, luôn tự phê bình và phê bình nhằm nâng cao phẩm chất cách
mạng và năng công tác của mình và đồng chí mình, luôn tôn trọng kỷ luật Đảng,
tuyệt đối chấp hành sự phân công của Đảng, đồng thời phải hoàn thành tốt nhiệm
vụ mà Đảng giao, tích cực hăng hái trong công việc, giữ gìn mối đoàn kết trong
Đảng, toàn đảng phải là một khối thống nhất, cả ý chí và hành động.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” về nội dung, đạo đức
cách mạng bao gồm năm tính tốt. Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm. Theo Hồ Chí Minh
:
-
“Nhân là thật thà, yêu thương con người,
hết lòng giúp đỡ đồng chí đồng bào; kiên quyết chống lại những người, nhưng
việc có hại đến Đảng, đến nhân dân; sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người,
hưởng hạnh phúc sau thiên hạ; không ham làm giàu, không e cực khổ, không sợ oai
quyền”(tr.251,251 HCM TT). “Nhân”
của Người bao hàm cả sự “trung hiếu” và được kế thừa phát triển từ những tư
tưởng “tư bi” của phật giáo góp phần nuôi dưỡng long nhân ái không chấp nhận sự
“nhẫn nhục” để buông xuôi cho số phận.
-
“Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm,
không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng,
không có lợi ích riêng phải lo toan. Lúc đảng giao cho việc, thì bất kỳ to nhỏ,
đều ra sức làm cẩn thận. Thấy việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói. Không
sợ người ta phê bình mình, mà phê bình người khác cũng phải đúng đắn”(tr.252
HCM TT). Với 2 luận điểm “nhân, nghĩa”, cán bộ, đảng viên một long, một dạ
trung thanhfvoiws mục tiêu lý tưởng của Đảng, kiên định với sự nghiệp đổi mới
đất nước, tận tâm, tận lực với công việc của Đảng, sẫn sang chấp nhân sự gian
khổ, huy sinh hết long phục vị vì lợi ích của Đảng, lợi trước của nhân dân.
Trước sự tác động mãnh mẽ của những mặt trái xã hội, từng cán bộ, đảng viên
phải giữ vững lập trường và nhân cách mẫu mực, không tham lam tài tài, chức vị
mà hết long thương yêu, phục vụ nhân dân với thái độ tận tình và trách nhiệm
cao nhất. Đi liền với thực hành “nhân, nghĩa”, thì phải kiên quyết đấu tranh
loại bỏ những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân như : bè phái, cực bộ, ăn hối
lội, đút lót, chạy chức, chạy tội…
-
“Trí là không bị mù quáng, đầu óc trong
sạch, sáng suốt, dễ hiểu lý luận, dễ tìm phương hướng. Biết xem người, biết xét
việc. Biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cất
nhắc người tốt, đề phòng người gian”(tr.252 HCM TT). Với quan điểm “trí”
này Hồ Chí Minh muốn cán bô, đảng viên phải không ngừng học tập, nắm vững bản
chắc cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê- nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, quan điểm của Đảng, kịp thời nắm bắt những kiến thức mới, tri thức
của khoa học tự nhiên và xã hội, cùng với đó là phương pháp tư duy ngày càng
tang them trí tuệ cho bản thân. Trong hoạt động thực tiễn phải có sự đầu tư trí
tuệ cho công việc, tích cực tìm tòi, sang tạo mang hết khã năng của mình cống
hiến phụng sự tổ quốc, phụng sự đoàn thể, phụng sự nhân dân.
-
“Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải
có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn có gan chịu
đựng. Có gan chống lại vinh hoa phú quí không chính đáng. Nếu cần thì có gan hy
sinh cả tính mệnh cho đảng, cho Tổ quốc. Không bao giờ rụt rè, nhút nhát” (tr.252 HCM TT). Như chúng ta đã biết
thì “trí” và “dũng” thường đi liền với nhau, vì sao?, vì rằng có “trí” rồi phải
có long dung cảm mới mạnh dạn dám nghỉ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước
việc ích nước, lợi dân. Ở thời kỳ cách mạng nào cán bộ, đảng viên cũng cần phải
có phẩm chất này.
-
Liêm là không tham địa vị. Không tham
tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình, là quang minh
chính đại, không hủ hoá( tr.252 HCM TT). Với quan điểm này Hồ Chí Minh muốn
nói là mỗi cán bộ, đảng viên phải tự mình soi lại bản thân, nhất là những người
có chức, có quyền. Lâu nay trong quan niệm của nhiều người cho rằng : làm quan
thì chỉ “nhất thời”, do vậy phải tranh thủ hưởng lôc, tranh thủ bòn tút, nhận
“quà biếu” để cho gia đình vợ con được hơn người, quan niệm này hoàn toàn sai
với một đạo đức của người cách mạng.
Ngoài ra chúng ta cần phải thấy rằng “ chữ “liêm” không đồng nhất với sự
cứng nhắc, máy móc, dập khuôn, kéo theo sự bảo thủ, trì trệ, mà trong thực thi
quyền hành và mọi hoạt động rất cần sự năng động, sang tạo, phát triển cái mới
trong xử lý khuyết điểm phải có lý, có tình đánh giá đúng bản chất sự việc, như
thế mới không mắc phải bệnh quan lieu, gia trưởng trong mỗi cán bộ, đảng viên.
Hồ Chí Minh cho rằng, người cán bộ,
đảng viên mà có đầy đủ những đức tính tốt đẹp ấy, họ sẽ có nền tảng tinh thần
vững chắc, giúp họ đủ sức vượt qua mọi khó khăn thử thách hoàn thành tốt mọi
nhiệm vụ mà Đảng, Tổ quốc, nhân dân giao phó.
CHƯƠNG II : NHÂN, NGHĨA,
TRÍ, DŨNG, LIÊM VÀ VIỆC RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI
HỌC SƯ PHẠM TP.HCM HIỆN NAY
2.1 Thực trạng giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm
trường ĐH SP TP.HCM
Trong những năm qua, công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên đã được Ban Giám hiệu, Đảng ủy trường Đại học Sư phạm TP.HCM hết sức
coi trọng. Trường đã có có những đổi mới trong công tác đào tạo, có những biện
pháp thích hợp, hữu hiệu để giáo dục, rèn luyện sinh viên, trang bị cho họ đầy
đủ kiến thức, kĩ năng và phẩm chất đạo đức của người giáo viên tương lai, hình
thành ở họ lí tưởng nghề nghiệp trong sáng, lành mạnh để họ gắn bó với sự
nghiệp đào tạo thế hệ trẻ. Đặc biệt, bên cạnh việc sắp xếp các môn học giáo dục
chuyên môn bắt buộc, nhà trường đã chỉ đạo khoa Giáo dục chính trị thường xuyên đổi mới, nội dung, phương pháp
giảng dạy và học tập các môn khoa học Mác – Lênin; lồng ghép giáo dục, định
hướng giá trị đạo đức nghề nghiệp. Tạo điều kiện cho các sinh viên tham gia các
các chương trình tình nguyện, nhằm hướng cho các em sống gắn kết vì cộng đồng,
sẻ chia với những khó khăn của nhân dân tại các nơi khó khăn, khuyến khích tinh
thần nhân ái, bao dung; giáo dục ý thức
tự giác và có tinh thần tình nguyện tham gia hoạt động trong các đội hình thanh
niên, sinh viên tình nguyên, sẵn sàng nhận các công việc khó khăn, gian khổ mà
không nhất thiết phải có quyền lợi vật chất cho bản thân. Ví dụ: Hàng năm,
trường Đại học Sư phạm Tp.HCM tổ chức
các chương trình tình nguyện như: Mùa hè xanh, Xuân tình nguyện, Tiếp xúc mùa
thi … để thực hiện các chương trình như xây nhà tình nghĩa, ứng dụng khoa học
kỹ thuật vào sản xuất cho bà con, tu sửa đường sá, giao thông, thủy lợi.
Tuy nhiên, công tác giáo
dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên cũng bộc lộ không ít bất cập. Sự quan tâm
của nhà trường, cấp uỷ đảng nhìn chung chưa tương xứng với yêu cầu mà giáo dục đạo đức nghề nghiệp đặt ra. Phần lớn
giáo dục đạo đức nghề nghiệp, chính trị, tư tưởng chỉ được thực hiện thông qua
các phong trào hoạt động của Đoàn, của Hội Sinh viên... mà chưa có kế hoạch,
nội dung, chương trình có tính chất chính khoá. Mặt khác ở chính bản thân sinh
viên trường sư phạm còn một bộ phận có tư tưởng tiêu cực với quan niệm “qua
được cửa ải tuyển sinh” thì vào trường ắt sẽ ra trường, nên thiếu cố gắng trong
học tập, rèn luyện, có tư tưởng ỉ lại dẫn đến hiện tượng vi phạm qui chế thi…
Để xác định đúng
nhận thức về con đường hiểu biết nghề nghiệp cũng như nhận thức các phẩm chất
cần thiết của người giáo viên, tôi đã tiến hành điều tra 80 sinh viên học tại
trường Đại học Sư phạm TP.HCM. Nội dung câu hỏi “ Để trở thành người thấy(cô)
giáo, những phẩm chất nào sau đây là cần thiết”.
·
Kết quả nghiên cứu 80 sinh viên trường Đại học Sư phạm
TP.HCM
Bảng 1: Những phẩm chất cần thiết của
một nhà giáo
TT
|
Các nội dung rèn luyện
|
Rất cần
|
Cần
|
Không cần
|
|||
SLL
|
%
|
SLL
|
%
|
SLL
|
%
|
||
1
|
Có trình độ văn hóa cao
|
72
|
90%
|
8
|
10%
|
||
2
|
Có kiến thứ chuyên môn nghiệp vụ giỏi
|
69
|
86%
|
11
|
14%
|
||
3
|
Có phẩm chất đạo đức tốt
|
80
|
100%
|
0
|
0
|
||
4
|
Có lòng yêu nghề, yêu trẻ
|
58
|
73%
|
22
|
27%
|
||
5
|
Tôn trọng nhân cách học sinh
|
14
|
18%
|
35
|
44%
|
31
|
38%
|
6
|
Quan tâm đến sự tiến bộ của học sinh
|
21
|
26%
|
44
|
55%
|
15
|
19%
|
7
|
Say mê, nhiệt huyết với công tác giảng dạy
|
26
|
33%
|
43
|
53%
|
11
|
14%
|
8
|
Có hiểu biết sâu rộng
|
30
|
38%
|
26
|
32%
|
24
|
30%
|
9
|
Có niềm tin nghề nghiệp
|
38
|
48%
|
42
|
52%
|
||
10
|
Sẵn sàn phục vụ sự nghiệp giáo dục
|
18
|
22%
|
14
|
18%
|
48
|
60%
|
Qua kết quả điều tra cho thấy, những phẩm chất đạo đức nghề
nghiệp của giáo viên được sinh viên trường đánh giá cao và cho rằng là rất cần
thiết đối với người nhà giáo:
-
Có phẩm chất đạo đức tốt (rất cần là 100%) ; có kiến thức chuyên
môn nghiệp vụ giỏi (rất cần 86%, cần 14%). Kết quả này khẳng định rằng, phẩm
chất đạo đức và kiến thức chuyên môn nghiệp vụ giỏi rất cần thiết đối với người
thầy giáo. Đây là hai điều kiện cơ bản đảm bảo cho mọi hoạt động của người thầy,
là yếu tố giúp người thầy thành công trong công các giáo dục của mình và là
tiêu chuẩn, phẩm chất mang tính đặc trưng nghê nghiệp.
-
Có năng trình độ văn hóa cao (rất cần 90%, cần 10%), có năng lực
tự học tự bồi dưỡng : Đây là những phẩm chất đặc trưng đối với một người thầy
cô giáo trong thời kỳ mở cửa, hội nhập. Không ngừng nâng cao năng lực tự học,
tự bồi dưỡng, trau dồi kỹ năng nghề để có hiểu biết rộng, sâu sắc cả về chuyên
môn nghiệp vụ và đạo đức để một mặt là hoàn thiện bản thân mình, một mặt là đáp
ứng nhu cầu của xã hội tương lai.
-
Có lòng yêu nghề, yêu trẻ (73%): Lòng yêu người, trước hết là yêu trẻ là một trong
những phẩm chất đạo đức cao quí của con người, là một phẩm chất đặc trưng trong
nhân cách người thầy giáo. Lòng thương người, yêu trẻ càng sâu sắc bao nhiêu
thì càng làm được nhiều việc vĩ đại bấy nhiêu. Yêu trẻ là sự biểu thị của lòng
nhân ái đồi với con người là đạo lý cuộc sống và cũng là sự biểu hiện của chữ “Nhân” của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, một số phẩm chất sinh viên nhận thức chưa cao và cho
rằng không cần thiết như :
-
Sẵn sang phục vụ sự nghiệp giáo dục rất cần chỉ có 22% trong khi
đó không cần lên đến 60%.
-
Quan tâm đến sự tiến bộ của học sinh rất cần là 22%, cần là 44%,
không cần 19%
-
Có hiểu biết sâu rộng chỉ dừng lại ở mức rất cần là 38%, cần là
32% trong khi đó không cần chiếm 30%
-
Tôn trọng nhân cách học sinh rất cần là 18%, cần là 44% và không
cần là 38
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên thì có rất nhiều nguyên
nhân, ở đây tôi xin đưa ra hai nguyên nhân chính :
Khách quan : Do ảnh hưởng của nền
kinh tế thị trường, làm cho sinh viên chạy theo lối sống thực dụng, một bộ phận
sinh viên có biểu hiện thờ ơ với sự nghiệp trồng người, coi công tác giảng dạy
chỉ là phụ. Ngoài ra chính sách của nhà nước đối với sự nghiệp trồng người chưa
thật sự thu hút, tình trạng ra trường không có việc làm đã tác động đến lớp
sinh viên đang học, làm cho các bạn chán nản, mất niềm tin. Công tác quản lý, chương
trình đạo tạo còn nhiều bất cập cũng là nguyên nhân làm suy thoái đạo đức nghề
nghiệp sinh viên hiện.
Chủ quan : Về phía sinh viên,
trong quá trình học, sinh viên học thêm các nghành khác như : ngoại ngữ, kế
toán, tin học để khi ra trường dễ dàng xin việc khi không được bố trí giảng dạy ở những nơi có điều
kiện thuận lợi, có thu nhập cao hoặc sẵn sang không nhận công tác khi thấy không
phù hợp. Một bộ phận không nhỏ sinh viên chưa có ý thức cao trong học tập, sinh
hoạt, thiếu ý chí phấn đấu, sống phụ thuộc vào người khác, đua đòi, thích hưởng
thụ và có nhận thức xã hội kém.
2.2 Một số biện
pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm trường Đại học Sư Phạm
TP. HCM theo tư tưởng đạo đức của HCM
Từ kết quả điều tra thực trạng, đạo đức nghề nghiệp của sinh
viên trường sư phạm vẫn còn nhiều vấn đề bất cập, trong khuôn khổ là một bài
tiểu luận nghiên cứu về vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức vào
việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên hiện nay, tôi xin đề xuất một
số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho viên trường
Đại học Sư Phạm với những nội dung sau :
Thứ nhất là tăng cường công tác
giáo dục đạo đức cho các sinh viên, nâng cao hiệu quả quản lý trong các trường
học, tức là chúng ta phải đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng làm rõ
trách nhiệm của nhà giáo đối với xã hội, đối với việc đào tạo bồi dưỡng thế hệ
tương lai của đất nước. Trên cơ sở hiểu biết trọng trách to lớn của mình đối
với đất nước, đối với xã hội mà các thầy cô tương lai thấy được lương tâm trách
nhiệm nghề nghiệp của mình. Cùng với sự tăng cường sinh hoạt tư tưởng, nâng cao
phẩm chất đạo đức cho các sinh viên, trường cần tăng cường công tác quản lý về
chuyên môn nghiệp vụ, kịp thời nắm vững tình hình diễn biến tư tưởng của các
sinh viên, từ đó có biện pháp đúng phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn
chế trong họ.
Thứ hai là tăng cường tổ chức
các hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên, vì thông qua các hoạt
động nghiệp rèn luyện vụ sư phạm không những giúp sinh viên rèn luyện tay nghề,
nâng cao trình độ, tự tin khi ra nghề mà còn
giúp sinh viên tiếp xúc nhiều với học sinh của mình nhiều hơn, từ đó
khơi dậy chữ “nhân” trong lòng sinh viên, có yêu thương học trò, yêu thương
nghề nghiệp mới hết lòng phụng sự cho sự nghiệp trồng người.
Thứ ba là đẩy mạnh nâng cao
trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm cho sinh viên, bằng cách nhà trường tổ
chức nhiều cuộc thi như là nghiệp vụ sư phạm, tổ chức các buổi giao lưu giữa
các khoa sư phạm với nhau, tạo nên một diễn đàn để sinh viên có thể trao đổi
kiến thức với nhau. Phải nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm, vì
rằng người giáo viên có trình độ, có năng lực sư phạm, biết vận dụng lý thuyết
vào thực tiễn, tìm ra những phương pháp giảng dạy hiệu quả mới có thể đào tạo
được những thế hệ công dân, cán bộ tài giỏi cho xã hội, do đó việc nâng cao
trình độ đặc biệt là về lĩnh vực chuyên môn của mình và một đều hết sức cần
thiết đối với những nhà giáo tương lai.
Thứ tư xây dựng môi trường sư
phạm lành mạnh với những hoạt động ngoại khóa phong phú mang màu sắc sư phạm,
nghĩa là thường xuyên tổ chức những buổi tham quan, dã ngoại đến các trường ở
vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, các trung tâm giáo dục thanh thiếu niên để
sinh viên có dịp tiếp cận và làm quen. Từ đó khơi dậy tình cảm và sự cảm thông
đối với các thầy cô công tác tại đó, sinh viên được tiếp them sức mạnh, niềm
tin vào nghề mình đã chọn
Thư năm là đổi mới nội dung,
chương trình đào tạo. Đảm bảo tính toàn diện, cân đối giữa lý thuyết và thực
hành ; giữa nội dung giảng dạy chính khóa với hoạt động ngoại khó. Hoạt động
ngoại khóa đóng vai trò quan trọng vào việc giáo dục lý tưởng, lòng say mê nghề
nghiệp cho sinh viên. Trong quá trình đào tạo, các khoa nên chú trọng phát huy
tích cực, sang tạo đọc lập trong học tập, rèn luyện và nghiên cứu khoa học của
sinh viên. Đây chính là những điều kiên giúp sinh viên chiếm lĩnh tri thức khoa
học và những kỹ năng nghề nghiệp
Các
biện pháp giáo dục trên có mối liên hệ qua lại và thống nhất với nhau, thực
hiện biện pháp này tốt sẽ thúc đẩy hỗ trợ việc thực hiện các biện pháp khác tạo
thành sức mạnh chung.
Tôi xin đề xuất một số giải pháp cá nhân của
mình nhằm nâng cao chất lượng đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường Đại học
Sư Phạm TP.HCM
-
Về phía các giáo viên chuyên môn, cần tích cực kết hợp nội dung
giáo dục đạo đức với nội dung bài giảng chuyên môn, coi đây là nhiệm vụ không
thể thiếu trong mỗi bài giảng. Đặc biệt coi trong vị trí của một số bộ môn đặc
trưng có ảnh hưởng trực tiếp đến công tác giáo dục tư tưởng, chính trị đạo đức
cho sinh viên như môn chính trị, tư tưởng Hồ Chí Minh, tâm lí học, giáo dục
học, đạo đức học….vì tôi thấy hiện tại các môn đó trong chương trình đào tạo là
những môn đại cương, không nghiên cứu sâu.
-
Trong việc xây dựng nội dung kiến tập, thực tập sư phạm cần tăng
cường nội dung RLNVSP, hướng vào việc nâng cao chất lượng dạy nghề sư phạm cho
sinh viên. Rèn luyên những kĩ năng hoạt đông giáo dục và giảng dạy cho sinh
viên, đồng thời là dịp để sinh viên rèn luyện và thể những phẩm chất đạo đức
người thầy giáo khi đi vào thực tế phổ thông. Ngoài ra nhà trường cần phải theo
dõi sát sao sinh viên trong quá trình kiến tập, thực tập, không đơn thuần là
những buổi dự giờ, gặp gỡ.
-
Tổ chức các hoạt động Ngoài giờ lên lớp một cách đa dạng nhằm
giúp sinh viên được rèn luyện một cách thường xuyên, đảm bảo được từ lí thuyết
đến thực tế, từ thực tế trở lại bổ sung và hoàn thiện lí thuyết. Cần đảm bảo
tính toàn diện cân đối giữa nội dung chính khóa với ngoại khó bởi những nội
dung này đóng ghóp một phần rất quan trọng trong việc giáo dục lí tưởng và tình
yêu nghề nghiệp cho sinh viên, đồng thời là những biện pháp giáo dục nghề nghiệp
rất tự nhiên, sinh viên sẽ cảm nhân một cách thoải mái nhẹ nhàng mà không bị sự
gò bó.
-
Tổ chức hợp lí các hoạt động chính trị xã hội, giao lưu văn hóa,
văn nghệ, khoa học, ngoại khóa góp phần nâng cao nhận thức cho sinh viên trong
việc rèn luyện đạo đức.
-
Nhà trường và khoa cần quan tâm tới việc phát huy tính tích cực,
độc lập sang tạo trong học tập, rèn luyện, nghiên cứu khoa học của sinh viên.
Cần chú trọng tới việc phát huy vai trò giữa giáo dục với tự giáo dục, vai trò
chủ thể cũng như năng lực tự quản của sinh viên nhằm góp phần giáo dục đạo đức
cho các em ngày càng sâu sắc hơn.
-
Hoàn thiện nội quy, quy
chế, trong các hoạt động của nhà trường nhằm đưa hoạt động của sinh viên vào
nền nếp tạo điều kiện rèn luyện hành vi thói quen đạo đức cho sinh viên. Đồng
thời với việc xây dựng chuẩn đánh giá xếp loại đạo đức định kì và xét tốt
nghiệp cho sinh viên, nhà trường cần tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá
nhằm có những căn cứ xếp loại, đánh giá một cách chính xác nhất, thúc đẩy sinh
viên tích cực rèn luyện tu dưỡng.
C. KẾT LUẬN
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, thân thế và
sự nghiệp của Người đã rở thành tấm gương đạo đức trong sáng của một vĩ nhân,
một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, một người cộng sản chân chính, đồng thời cũng là
tấm gương đạo đức của người bình thường, ai cũng có thể noi theo, làm theo để
trở thành người công dân tốt trong xã hội.
Nhất là tầng lớp sinh
viên sư phạm chúng ta, những thầy cô tương lai là “cái máy”, là “công nghiệp
nặng” của ngành giáo dục. Vì vậy để xứng đáng với Đảng, với Nhà nước, với sự
trông đợi của tất cả mọi người, chúng ta không những phải nỗ lực học tập thật
giỏi về chuyên môn mà còn phải rèn luyện
tu dưỡng đạo đức, học tập theo tấm gương đạo đức Người để vững vàng trở thanh
chủ nhân tương lai của đất nước, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh sánh vai
với các cường quốc năm châu.
Bản thân là một sinh viên trường Đại học Sư Phạm TP.HCM tôi thấy
mình phải không ngừng học tập, tu dưỡng và rèn luyện đạo đức vì rằng những thứ
đó không phải từ trên trời sa xuống mà có, cần phải trải qua một quá trình rèn
luyện, học tập lâu dài mới có được
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ø
Sách
[1]. Sửa đổi lối làm việc, Nxb Trẻ
[2]. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb Giáo dục, năm 2008
[3]. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc Gia
Ø Wedsite:
[1]. http://vi.wikipedia.org/
[2]. http://nguoilambao.vn/
[3]. http://dantri.com.vn
Utopia/NCC
<>
<>
<>
<>
<>
0 Comments