TIỂU LUẬN - ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG TRONG “SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC” – NỘI DUNG VÀ VẬN DỤNG




ĐỀ TÀI:

ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG TRONG “SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC” – NỘI DUNG VÀ VẬN DỤNG
Nguyễn Thanh Đoàn Em

Lớp :  3A-K37
MSV : K37605027

A.   MỞ ĐẦU

Tác phẩm: “Sửa đổi lối làm việc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết xong tháng 10 năm 1947 ký tên XYZ- Nxb sư thật xuất bản lần đầu tiên năm 1948, xuất bản lần thứ 7 năm 1959. Từ khi ra đời đến nay, tác phẩm: “Sửa đổi lối làm việc” luôn là văn kiện quan trọng về xây dựng Đảng. Tác phẩm được viết trong một thời kỳ đặc biệt, với bản chất xâm lược và hiếu chiến, kẻ thù đã gửi 3 tối hậu thư trong 2 ngày, đòi chúng ta phải hạ vũ khí; chúng đã buộc chúng ta phải cầm súng đứng lên bảo vệ nền độc lập. Cuộc kháng chiến trường kỳ càng khó khăn, gian khổ yêu cầu sức chiến đấu của Đảng ngày càng cao. Để kịp thời chỉnh đốn Đảng, phê bình những khuyết điểm, sai lầm, tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” đã kịp thời ra đời để sửa đổi lối làm việc của Đảng. Được viết cách đây hơn 60 năm, nhưng đến nay nội dung, tư tưởng tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị, là một trong những tài liệu phục vụ cho việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Qua việc học tập và nghiên cứu tác phẩm: “Sửa đổi lối làm việc”, tôi nhận thấy nội dung, tư tưởng của tác phẩm không những được vận dụng rất tốt cho môn học Xây dựng Đảng, Lịch sử Đảng… mà còn được vận dụng hiệu quả trong việc giáo dục đạo đức sư phạm cho sinh viên sư phạm hiện nay. Như chúng ta đã biết việc tìm hiểu, nghiên cứu tác phẩm sửa đổi lối làm việc, làm theo những điều chỉ dẫn của Người mỗi câu, mỗi ý tác phẩm này là việc rất bổ ít, thiết thực hiện nay, mỗi ý nói lên những việc cụ thể cần làm và nên làm như thế nào để công tác của mỗi người, mỗi cơ quan, mỗi đơn vị hoành thành, đi đến thắng lợi. Cũng vì nó có ý nghĩa to lớn đó cho nên tôi quyết định chọn đề tài: “Đạo đức cách mạng trong “Sửa đổi lối làm việc”- Nội dung và vận dụng”
Bàn về đạo đức cách mạng trong tác phẩm “ Sửa đổi lối làm việc” thì có rất nhiều những bài viết, tham luận của những nhà chính trị, nhà giáo dục nổi tiếng. Tuy nhiên, những bài viết này đó mới chỉ đánh giá, phân tích nội dung cốt lỗi của vấn đề,  rất ít hay là chưa có những bài viết tham luận về việc vận dụng tư tưởng “Đạo đức cách mạng” vào việc giáo dục đạo đức cho sinh viên sư phạm.
3.     Mục đích nghiên cứu
Đi vào phân tích nội dung đạo đức cách mạng, từ đó vận dụng vào việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường Đại học Sư phạm TP.HCM
Đối tượng nghiên cứu : “Đạo đức cách mạng trong “Sửa đổi lối làm việc”- Nội dung và vận dụng”
-    Phạm vi nghiên cứu : Bài nghiên cứu chỉ nghiên cứu nội dung đạo đức cách mạng từ đó vận dụng cho việcgiáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường Đại học Sư Phạm TP.HCM.
+ Hệ thống quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin
-    Bài nghiên cứu sử dụng các phương pháp lịch sử và logic, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh,điều tra bảng hỏi, thống nhất giữa cái chung và cái riêng.
-         Tiểu luận có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu giảng dạy về Tư tưởng Hồ Chí Minh, Lịch Sự Đảng, Dân Vận.
-         Phần vận dụng ta có thể làm tài liệu tham khảo trong một số nghiên cứu về giáo dục nghiệp vụ sư phạm, đạo đức học ở các trường sư phạm Việt Nam hiện nay, làm cho ngành sư phạm Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn.

Người là niềm tin tất thắng

B. NÔI DUNG

CHƯƠNG I : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG TRONG TÁC PHẨM SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC

1.1  Vai trò của đạo đức cách mạng

“Đạo đức là cái gốc của người cách mạng.”
Theo Hồ Chí Minh người cách mạng phải có đạo đức cách mạng. Có đạo đức cách mạng thì người cán bộ mới được dân tin, dân phục, dân yêu, từ đó thì người cán bộ mới có thể lãnh đạo được dân chúng làm cách mạng. Hồ Chí Minh chỉ ra đối với người cán bộ, đảng viên không có đạo đức cách mạng thì tài giỏi mấy cũng không thể lãnh đạo được dân chúng. Người coi đạo đức cách mạng là gốc, là nền tảng vững chắc, là lý tưởng sống của người cách mạng. Nó là động cơ bên trong, tạo ra sự thôi thúc to lớn để người cách mạng thực hiện, nó tăng thêm sức mạnh bền bỉ giúp người cách mạng có đủ sức mạnh để suốt đời hy sinh phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của đảng. Đạo đức cách mạng còn là nền tảng cho những năng lực, tài năng của người cán bộ đảng viên phục vụ lợi ích cho cách mạng, cho Tổ quốc, cho nhân dân. Trong tác phẩm “ Sửa đổi lối làm việc” Người viết: “Cũng như sông có nguồn mới có nước, không có nguồn thí sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì làm nổi việc gì”(tr.252- 253, HCM tt).
Hồ Chí Minh cho rằng làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp hết sức vẻ vang, đồng thời đó cũng là nhiệm vụ hết sức nặng nề, đó là một cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp, gian khổ, cũng như người có sức mạnh mới gánh được xa, người cách mạng có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành nhiệm vụ một cách vẻ vang. Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, hoặc thậm chí bị thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè hoặc lùi bước. Cũng nhờ có đạo đức cách mạng mà người cách mạng không ngần ngại hy sinh tất cả lợi ích riêng của cá nhân mình, khi cần sẵn sàng hy sinh cả tính mạng mình cho Đảng, Tổ quốc, cho nhân dân. Có đạo đức cách mạng thì khi gặp thuận lợi, thành công, khó khăn hay thất bại đều một lòng quyết tâm vì lợi ích của đảng, của dân tộc.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh  đạo đức là gốc, là nền tảng nhưng không phải là độc tôn, là đối lập với những yếu tố khác đặc biệt là tài năng. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu đối với mỗi người thì tài năng và đạo đức phải đi liền với nhau.
Trên thực tế thì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng với Đảng ta để lại cho chúng ta một hệ thống quan điểm sâu sắc và toàn diện về đạo đức. Bản thân Người là một tấm gương về đạo đức CM. Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã trở thành một bộ phận quan trọng trong nền tảng tinh thần của XH VN.

1.2   Nội dung đạo đức cách mạng
Khi nói về đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh đã đặt trong mối tương quan giữa mới và cũ, Người chỉ ra đạo đức cách mạng là đạo đức mới, nó khác hẳn về chất so với đạo đức cũ, nó không vì danh vọng, không vì lợi ích của một cá nhân nào, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc và của loài người. Hồ Chí Minh chỉ ra đạo đức của xã hội cũ là sự phản ánh lợi ích của giai cấp bóc lột, là công cụ tinh thần để nô dịch nhân dân, củng cố địa vị thống trị của các giai cấp bóc lột và vì lợi ích của thiểu số, trong khi đạo đức cách mạng phản ánh lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn nhân loại, là vũ khí tinh thần để giai cấp công nhân và nhân dân lao động giải phóng mình và giải phóng nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh cho chúng ta thấy rõ đạo đức cách mạng gắn bó một cách chặt chẽ, hữu cơ với sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam và mỗi đảng viên của Đảng phải tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, suốt đời hy sinh cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, ra sức phấn đấu thực hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng, phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Hồ Chí Minh chỉ ra, đạo đức cách mạng còn phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc. Người chỉ rõ, đạo đức cách mạng hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa cá nhân - một thứ vi trùng rất độc, rất nguy hiểm đối với sức mạnh của Đảng. Từ chủ nghĩa cá nhân sinh ra biết bao các bệnh khác, như bệnh tham lam, bệnh lười biếng, bệnh kiêu ngạo bệnh hiếu danh, thiếu kỷ luật,… hoàn toàn trái với bản chất cách mạng của Đảng, đi ngược lại lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng còn là ra sức học tập Chủ nghĩa Mác-Lênin, luôn tự phê bình và phê bình nhằm nâng cao phẩm chất cách mạng và năng công tác của mình và đồng chí mình, luôn tôn trọng kỷ luật Đảng, tuyệt đối chấp hành sự phân công của Đảng, đồng thời phải hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng giao, tích cực hăng hái trong công việc, giữ gìn mối đoàn kết trong Đảng, toàn đảng phải là một khối thống nhất, cả ý chí và hành động.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” về nội dung, đạo đức cách mạng bao gồm năm tính tốt. Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm. Theo Hồ Chí Minh :
- “Nhân là thật thà, yêu thương con người, hết lòng giúp đỡ đồng chí đồng bào; kiên quyết chống lại những người, nhưng việc có hại đến Đảng, đến nhân dân; sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ; không ham làm giàu, không e cực khổ, không sợ oai quyền”(tr.251,251 HCM TT). “Nhân” của Người bao hàm cả sự “trung hiếu” và được kế thừa phát triển từ những tư tưởng “tư bi” của phật giáo góp phần nuôi dưỡng long nhân ái không chấp nhận sự “nhẫn nhục” để buông xuôi cho số phận.
- “Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng, không có lợi ích riêng phải lo toan. Lúc đảng giao cho việc, thì bất kỳ to nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận. Thấy việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói. Không sợ người ta phê bình mình, mà phê bình người khác cũng phải đúng đắn”(tr.252 HCM TT). Với 2 luận điểm “nhân, nghĩa”, cán bộ, đảng viên một long, một dạ trung thanhfvoiws mục tiêu lý tưởng của Đảng, kiên định với sự nghiệp đổi mới đất nước, tận tâm, tận lực với công việc của Đảng, sẫn sang chấp nhân sự gian khổ, huy sinh hết long phục vị vì lợi ích của Đảng, lợi trước của nhân dân. Trước sự tác động mãnh mẽ của những mặt trái xã hội, từng cán bộ, đảng viên phải giữ vững lập trường và nhân cách mẫu mực, không tham lam tài tài, chức vị mà hết long thương yêu, phục vụ nhân dân với thái độ tận tình và trách nhiệm cao nhất. Đi liền với thực hành “nhân, nghĩa”, thì phải kiên quyết đấu tranh loại bỏ những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân như : bè phái, cực bộ, ăn hối lội, đút lót, chạy chức, chạy tội…
- “Trí là không bị mù quáng, đầu óc trong sạch, sáng suốt, dễ hiểu lý luận, dễ tìm phương hướng. Biết xem người, biết xét việc. Biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cất nhắc người tốt, đề phòng người gian”(tr.252 HCM TT). Với quan điểm “trí” này Hồ Chí Minh muốn cán bô, đảng viên phải không ngừng học tập, nắm vững bản chắc cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê- nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, kịp thời nắm bắt những kiến thức mới, tri thức của khoa học tự nhiên và xã hội, cùng với đó là phương pháp tư duy ngày càng tang them trí tuệ cho bản thân. Trong hoạt động thực tiễn phải có sự đầu tư trí tuệ cho công việc, tích cực tìm tòi, sang tạo mang hết khã năng của mình cống hiến phụng sự tổ quốc, phụng sự đoàn thể, phụng sự nhân dân.
- “Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn có gan chịu đựng. Có gan chống lại vinh hoa phú quí không chính đáng. Nếu cần thì có gan hy sinh cả tính mệnh cho đảng, cho Tổ quốc. Không bao giờ rụt rè, nhút nhát (tr.252 HCM TT). Như chúng ta đã biết thì “trí” và “dũng” thường đi liền với nhau, vì sao?, vì rằng có “trí” rồi phải có long dung cảm mới mạnh dạn dám nghỉ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước việc ích nước, lợi dân. Ở thời kỳ cách mạng nào cán bộ, đảng viên cũng cần phải có phẩm chất này.
- Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình, là quang minh chính đại, không hủ hoá( tr.252 HCM TT). Với quan điểm này Hồ Chí Minh muốn nói là mỗi cán bộ, đảng viên phải tự mình soi lại bản thân, nhất là những người có chức, có quyền. Lâu nay trong quan niệm của nhiều người cho rằng : làm quan thì chỉ “nhất thời”, do vậy phải tranh thủ hưởng lôc, tranh thủ bòn tút, nhận “quà biếu” để cho gia đình vợ con được hơn người, quan niệm này hoàn toàn sai với một đạo đức của người cách mạng.  Ngoài ra chúng ta cần phải thấy rằng “ chữ “liêm” không đồng nhất với sự cứng nhắc, máy móc, dập khuôn, kéo theo sự bảo thủ, trì trệ, mà trong thực thi quyền hành và mọi hoạt động rất cần sự năng động, sang tạo, phát triển cái mới trong xử lý khuyết điểm phải có lý, có tình đánh giá đúng bản chất sự việc, như thế mới không mắc phải bệnh quan lieu, gia trưởng trong mỗi cán bộ, đảng viên.
Hồ Chí Minh cho rằng, người cán bộ, đảng viên mà có đầy đủ những đức tính tốt đẹp ấy, họ sẽ có nền tảng tinh thần vững chắc, giúp họ đủ sức vượt qua mọi khó khăn thử thách hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng, Tổ quốc, nhân dân giao phó. 

CHƯƠNG II : NHÂN, NGHĨA, TRÍ, DŨNG, LIÊM VÀ VIỆC RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM HIỆN NAY

2.1 Thực trạng giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm trường ĐH SP TP.HCM

Trong những năm qua, công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên đã được Ban Giám hiệu, Đảng ủy trường Đại học Sư phạm TP.HCM hết sức coi trọng. Trường đã có có những đổi mới trong công tác đào tạo, có những biện pháp thích hợp, hữu hiệu để giáo dục, rèn luyện sinh viên, trang bị cho họ đầy đủ kiến thức, kĩ năng và phẩm chất đạo đức của người giáo viên tương lai, hình thành ở họ lí tưởng nghề nghiệp trong sáng, lành mạnh để họ gắn bó với sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ. Đặc biệt, bên cạnh việc sắp xếp các môn học giáo dục chuyên môn bắt buộc, nhà trường đã chỉ đạo khoa Giáo dục chính trị thường xuyên đổi mới, nội dung, phương pháp giảng dạy và học tập các môn khoa học Mác – Lênin; lồng ghép giáo dục, định hướng giá trị đạo đức nghề nghiệp. Tạo điều kiện cho các sinh viên tham gia các các chương trình tình nguyện, nhằm hướng cho các em sống gắn kết vì cộng đồng, sẻ chia với những khó khăn của nhân dân tại các nơi khó khăn, khuyến khích tinh thần nhân ái, bao dung;  giáo dục ý thức tự giác và có tinh thần tình nguyện tham gia hoạt động trong các đội hình thanh niên, sinh viên tình nguyên, sẵn sàng nhận các công việc khó khăn, gian khổ mà không nhất thiết phải có quyền lợi vật chất cho bản thân. Ví dụ: Hàng năm, trường Đại học Sư phạm Tp.HCM  tổ chức các chương trình tình nguyện như: Mùa hè xanh, Xuân tình nguyện, Tiếp xúc mùa thi … để thực hiện các chương trình như xây nhà tình nghĩa, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất cho bà con, tu sửa đường sá, giao thông, thủy lợi.
Tuy nhiên,  công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên cũng bộc lộ không ít bất cập. Sự quan tâm của nhà trường, cấp uỷ đảng nhìn chung chưa tương xứng với yêu cầu mà  giáo dục đạo đức nghề nghiệp đặt ra. Phần lớn giáo dục đạo đức nghề nghiệp, chính trị, tư tưởng chỉ được thực hiện thông qua các phong trào hoạt động của Đoàn, của Hội Sinh viên... mà chưa có kế hoạch, nội dung, chương trình có tính chất chính khoá. Mặt khác ở chính bản thân sinh viên trường sư phạm còn một bộ phận có tư tưởng tiêu cực với quan niệm “qua được cửa ải tuyển sinh” thì vào trường ắt sẽ ra trường, nên thiếu cố gắng trong học tập, rèn luyện, có tư tưởng ỉ lại dẫn đến hiện tượng vi phạm qui chế thi…
         Để xác định đúng nhận thức về con đường hiểu biết nghề nghiệp cũng như nhận thức các phẩm chất cần thiết của người giáo viên, tôi đã tiến hành điều tra 80 sinh viên học tại trường Đại học Sư phạm TP.HCM. Nội dung câu hỏi “ Để trở thành người thấy(cô) giáo, những phẩm chất nào sau đây là cần thiết”.
·        Kết quả nghiên cứu 80 sinh viên trường Đại học Sư phạm TP.HCM
Bảng 1: Những phẩm chất cần thiết của một nhà giáo
TT
Các nội dung rèn luyện
Rất cần
Cần
Không cần
SLL
%
SLL
%
SLL
%
1
Có trình độ văn hóa cao
72
90%
8
10%

2
Có kiến thứ chuyên môn nghiệp vụ giỏi
69
86%
11
14%

3
Có phẩm chất đạo đức tốt
80
100%
0
0

4
Có lòng yêu nghề, yêu trẻ
58
73%
22
27%

5
Tôn trọng nhân cách học sinh
14
18%
35
44%
31
38%
6
Quan tâm đến sự tiến bộ của học sinh
21
26%
44
55%
15
19%
7
Say mê, nhiệt huyết với công tác giảng dạy
26
33%
43
53%
11
14%
8
Có hiểu biết sâu rộng
30
38%
26
32%
24
30%
9
Có niềm tin nghề nghiệp
38
48%
42
52%


10
Sẵn sàn phục vụ sự nghiệp giáo dục
18
22%
14
18%
48
60%
     
Qua kết quả điều tra cho thấy, những phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của giáo viên được sinh viên trường đánh giá cao và cho rằng là rất cần thiết đối với người nhà giáo:
-         Có phẩm chất đạo đức tốt (rất cần là 100%) ; có kiến thức chuyên môn nghiệp vụ giỏi (rất cần 86%, cần 14%). Kết quả này khẳng định rằng, phẩm chất đạo đức và kiến thức chuyên môn nghiệp vụ giỏi rất cần thiết đối với người thầy giáo. Đây là hai điều kiện cơ bản đảm bảo cho mọi hoạt động của người thầy, là yếu tố giúp người thầy thành công trong công các giáo dục của mình và là tiêu chuẩn, phẩm chất mang tính đặc trưng nghê nghiệp.
-         Có năng trình độ văn hóa cao (rất cần 90%, cần 10%), có năng lực tự học tự bồi dưỡng : Đây là những phẩm chất đặc trưng đối với một người thầy cô giáo trong thời kỳ mở cửa, hội nhập. Không ngừng nâng cao năng lực tự học, tự bồi dưỡng, trau dồi kỹ năng nghề để có hiểu biết rộng, sâu sắc cả về chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức để một mặt là hoàn thiện bản thân mình, một mặt là đáp ứng nhu cầu của xã hội tương lai.
-         Có lòng yêu nghề, yêu trẻ (73%): Lòng  yêu người, trước hết là yêu trẻ là một trong những phẩm chất đạo đức cao quí của con người, là một phẩm chất đặc trưng trong nhân cách người thầy giáo. Lòng thương người, yêu trẻ càng sâu sắc bao nhiêu thì càng làm được nhiều việc vĩ đại bấy nhiêu. Yêu trẻ là sự biểu thị của lòng nhân ái đồi với con người là đạo lý cuộc sống và cũng là sự biểu hiện của chữ “Nhân” của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, một số phẩm chất sinh viên nhận thức chưa cao và cho rằng không cần thiết như :
-         Sẵn sang phục vụ sự nghiệp giáo dục rất cần chỉ có 22% trong khi đó không cần lên đến 60%.
-         Quan tâm đến sự tiến bộ của học sinh rất cần là 22%, cần là 44%, không cần 19%
-         Có hiểu biết sâu rộng chỉ dừng lại ở mức rất cần là 38%, cần là 32% trong khi đó không cần chiếm 30%
-         Tôn trọng nhân cách học sinh rất cần là 18%, cần là 44% và không cần là 38
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên thì có rất nhiều nguyên nhân, ở đây tôi xin đưa ra hai nguyên nhân chính :
Khách quan : Do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, làm cho sinh viên chạy theo lối sống thực dụng, một bộ phận sinh viên có biểu hiện thờ ơ với sự nghiệp trồng người, coi công tác giảng dạy chỉ là phụ. Ngoài ra chính sách của nhà nước đối với sự nghiệp trồng người chưa thật sự thu hút, tình trạng ra trường không có việc làm đã tác động đến lớp sinh viên đang học, làm cho các bạn chán nản, mất niềm tin. Công tác quản lý, chương trình đạo tạo còn nhiều bất cập cũng là nguyên nhân làm suy thoái đạo đức nghề nghiệp sinh viên hiện.
Chủ quan : Về phía sinh viên, trong quá trình học, sinh viên học thêm các nghành khác như : ngoại ngữ, kế toán, tin học để khi ra trường dễ dàng xin việc khi không  được bố trí giảng dạy ở những nơi có điều kiện thuận lợi, có thu nhập cao hoặc sẵn sang không nhận công tác khi thấy không phù hợp. Một bộ phận không nhỏ sinh viên chưa có ý thức cao trong học tập, sinh hoạt, thiếu ý chí phấn đấu, sống phụ thuộc vào người khác, đua đòi, thích hưởng thụ và có nhận thức xã hội kém.

2.2 Một số biện pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm trường Đại học Sư Phạm TP. HCM theo tư tưởng đạo đức của HCM

Từ kết quả điều tra thực trạng, đạo đức nghề nghiệp của sinh viên trường sư phạm vẫn còn nhiều vấn đề bất cập, trong khuôn khổ là một bài tiểu luận nghiên cứu về vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức vào việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên hiện nay, tôi xin đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho viên trường Đại học Sư Phạm với những nội dung sau :
Thứ nhất là tăng cường công tác giáo dục đạo đức cho các sinh viên, nâng cao hiệu quả quản lý trong các trường học, tức là chúng ta phải đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng làm rõ trách nhiệm của nhà giáo đối với xã hội, đối với việc đào tạo bồi dưỡng thế hệ tương lai của đất nước. Trên cơ sở hiểu biết trọng trách to lớn của mình đối với đất nước, đối với xã hội mà các thầy cô tương lai thấy được lương tâm trách nhiệm nghề nghiệp của mình. Cùng với sự tăng cường sinh hoạt tư tưởng, nâng cao phẩm chất đạo đức cho các sinh viên, trường cần tăng cường công tác quản lý về chuyên môn nghiệp vụ, kịp thời nắm vững tình hình diễn biến tư tưởng của các sinh viên, từ đó có biện pháp đúng phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế trong họ.
Thứ hai là tăng cường tổ chức các hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên, vì thông qua các hoạt động nghiệp rèn luyện vụ sư phạm không những giúp sinh viên rèn luyện tay nghề, nâng cao trình độ, tự tin khi ra nghề mà còn  giúp sinh viên tiếp xúc nhiều với học sinh của mình nhiều hơn, từ đó khơi dậy chữ “nhân” trong lòng sinh viên, có yêu thương học trò, yêu thương nghề nghiệp mới hết lòng phụng sự cho sự nghiệp trồng người.
Thứ ba là đẩy mạnh nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm cho sinh viên, bằng cách nhà trường tổ chức nhiều cuộc thi như là nghiệp vụ sư phạm, tổ chức các buổi giao lưu giữa các khoa sư phạm với nhau, tạo nên một diễn đàn để sinh viên có thể trao đổi kiến thức với nhau. Phải nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm, vì rằng người giáo viên có trình độ, có năng lực sư phạm, biết vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, tìm ra những phương pháp giảng dạy hiệu quả mới có thể đào tạo được những thế hệ công dân, cán bộ tài giỏi cho xã hội, do đó việc nâng cao trình độ đặc biệt là về lĩnh vực chuyên môn của mình và một đều hết sức cần thiết đối với những nhà giáo tương lai.

Thứ tư xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh với những hoạt động ngoại khóa phong phú mang màu sắc sư phạm, nghĩa là thường xuyên tổ chức những buổi tham quan, dã ngoại đến các trường ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, các trung tâm giáo dục thanh thiếu niên để sinh viên có dịp tiếp cận và làm quen. Từ đó khơi dậy tình cảm và sự cảm thông đối với các thầy cô công tác tại đó, sinh viên được tiếp them sức mạnh, niềm tin vào nghề mình đã chọn
Thư năm là đổi mới nội dung, chương trình đào tạo. Đảm bảo tính toàn diện, cân đối giữa lý thuyết và thực hành ; giữa nội dung giảng dạy chính khóa với hoạt động ngoại khó. Hoạt động ngoại khóa đóng vai trò quan trọng vào việc giáo dục lý tưởng, lòng say mê nghề nghiệp cho sinh viên. Trong quá trình đào tạo, các khoa nên chú trọng phát huy tích cực, sang tạo đọc lập trong học tập, rèn luyện và nghiên cứu khoa học của sinh viên. Đây chính là những điều kiên giúp sinh viên chiếm lĩnh tri thức khoa học và những kỹ năng nghề nghiệp
      Các biện pháp giáo dục trên có mối liên hệ qua lại và thống nhất với nhau, thực hiện biện pháp này tốt sẽ thúc đẩy hỗ trợ việc thực hiện các biện pháp khác tạo thành sức mạnh chung.
Tôi xin đề xuất một số giải pháp cá nhân của mình nhằm nâng cao chất lượng đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường Đại học Sư Phạm TP.HCM
-         Về phía các giáo viên chuyên môn, cần tích cực kết hợp nội dung giáo dục đạo đức với nội dung bài giảng chuyên môn, coi đây là nhiệm vụ không thể thiếu trong mỗi bài giảng. Đặc biệt coi trong vị trí của một số bộ môn đặc trưng có ảnh hưởng trực tiếp đến công tác giáo dục tư tưởng, chính trị đạo đức cho sinh viên như môn chính trị, tư tưởng Hồ Chí Minh, tâm lí học, giáo dục học, đạo đức học….vì tôi thấy hiện tại các môn đó trong chương trình đào tạo là những môn đại cương, không nghiên cứu sâu.
-         Trong việc xây dựng nội dung kiến tập, thực tập sư phạm cần tăng cường nội dung RLNVSP, hướng vào việc nâng cao chất lượng dạy nghề sư phạm cho sinh viên. Rèn luyên những kĩ năng hoạt đông giáo dục và giảng dạy cho sinh viên, đồng thời là dịp để sinh viên rèn luyện và thể những phẩm chất đạo đức người thầy giáo khi đi vào thực tế phổ thông. Ngoài ra nhà trường cần phải theo dõi sát sao sinh viên trong quá trình kiến tập, thực tập, không đơn thuần là những buổi dự giờ, gặp gỡ.
-         Tổ chức các hoạt động Ngoài giờ lên lớp một cách đa dạng nhằm giúp sinh viên được rèn luyện một cách thường xuyên, đảm bảo được từ lí thuyết đến thực tế, từ thực tế trở lại bổ sung và hoàn thiện lí thuyết. Cần đảm bảo tính toàn diện cân đối giữa nội dung chính khóa với ngoại khó bởi những nội dung này đóng ghóp một phần rất quan trọng trong việc giáo dục lí tưởng và tình yêu nghề nghiệp cho sinh viên, đồng thời là những biện pháp giáo dục nghề nghiệp rất tự nhiên, sinh viên sẽ cảm nhân một cách thoải mái nhẹ nhàng mà không bị sự gò bó.
-         Tổ chức hợp lí các hoạt động chính trị xã hội, giao lưu văn hóa, văn nghệ, khoa học, ngoại khóa góp phần nâng cao nhận thức cho sinh viên trong việc rèn luyện đạo đức.
-         Nhà trường và khoa cần quan tâm tới việc phát huy tính tích cực, độc lập sang tạo trong học tập, rèn luyện, nghiên cứu khoa học của sinh viên. Cần chú trọng tới việc phát huy vai trò giữa giáo dục với tự giáo dục, vai trò chủ thể cũng như năng lực tự quản của sinh viên nhằm góp phần giáo dục đạo đức cho các em ngày càng sâu sắc hơn.
-          Hoàn thiện nội quy, quy chế, trong các hoạt động của nhà trường nhằm đưa hoạt động của sinh viên vào nền nếp tạo điều kiện rèn luyện hành vi thói quen đạo đức cho sinh viên. Đồng thời với việc xây dựng chuẩn đánh giá xếp loại đạo đức định kì và xét tốt nghiệp cho sinh viên, nhà trường cần tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá nhằm có những căn cứ xếp loại, đánh giá một cách chính xác nhất, thúc đẩy sinh viên tích cực rèn luyện tu dưỡng.

C. KẾT LUẬN

      Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, thân thế và sự nghiệp của Người đã rở thành tấm gương đạo đức trong sáng của một vĩ nhân, một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, một người cộng sản chân chính, đồng thời cũng là tấm gương đạo đức của người bình thường, ai cũng có thể noi theo, làm theo để trở thành người công dân tốt trong xã hội. 
Nhất là tầng lớp  sinh viên sư phạm chúng ta, những thầy cô tương lai là “cái máy”, là “công nghiệp nặng” của ngành giáo dục. Vì vậy để xứng đáng với Đảng, với Nhà nước, với sự trông đợi của tất cả mọi người, chúng ta không những phải nỗ lực học tập thật giỏi về  chuyên môn mà còn phải rèn luyện tu dưỡng đạo đức, học tập theo tấm gương đạo đức Người để vững vàng trở thanh chủ nhân tương lai của đất nước, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh sánh vai với các cường quốc năm châu. 
Bản thân là một sinh viên trường Đại học Sư Phạm TP.HCM tôi thấy mình phải không ngừng học tập, tu dưỡng và rèn luyện đạo đức vì rằng những thứ đó không phải từ trên trời sa xuống mà có, cần phải trải qua một quá trình rèn luyện, học tập lâu dài mới có được

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO



Ø Sách

[1]. Sửa đổi lối làm việc, Nxb Trẻ
[2]. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb Giáo dục, năm 2008
[3]. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc Gia

Ø Wedsite:

[1]. http://vi.wikipedia.org/
[2]. http://nguoilambao.vn/
[3]. http://dantri.com.vn
                                                                                                                                 Utopia/NCC


Post a Comment

0 Comments